Lưu
Trọng Lư với bài thơ Tiếng Thu
Lưu
Trọng Lư là nhà thơ tiên phong của phong trào Thơ mới. Nhận định về nghệ thuật
thơ ông, nhà phê bình thiên tài Hoài Thanh đã có những nhận xét thật chuẩn xác:
"Tôi biết có kẻ trách Lư cẩu thả, lười biếng, không biết chọn chữ, không
chịu khó gọt giũa câu thơ. Nhưng Lư có làm thơ đâu, Lư chỉ để lòng mình tràn
lan trên mặt giấy".
Nhận
định này dường như đã thành nỗi ám ảnh. Và rồi suốt đời, Lưu Trọng Lư cứ loạng
choạng, cứ bập bỗm bước trong cái vòng kim cô mà Hoài Thanh đã tiên đoán và
vạch ra ngay từ khi ông mới xuất hiện trên thi đàn. Còn về con người Lưu Trọng
Lư, thiết tưởng cũng chẳng có ai hiểu ông hơn Hoài Thanh: "Cả đời Lư cũng
là một bài thơ. Nếu quả như người ta vẫn nói, thi sĩ là một kẻ ngơ ngơ ngác
ngác, chân bước chập chững trên đường đời, thì có lẽ Lư thi sĩ hơn ai
hết".
Quả
đúng vậy. Và nếu chọn một bài thơ thơ nhất của Việt Nam, nghĩa là ngoài thơ ra, nó
không có gì bấu víu, thì đó chính là Tiếng thu. Đây là bài hay nhất trong đời
thơ Lưu Trọng Lư, cũng là bài thơ thơ nhất của thi ca Việt Nam hiện đại:
Em không nghe mùa thu
Dưới trăng mờ thổn thức?
Em không nghe rạo rực
Hình ảnh kẻ chinh phu
Trong lòng người cô phụ
Em không nghe rừng thu
Lá thu kêu xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Đạo trên lá vàng khô...
Dưới trăng mờ thổn thức?
Em không nghe rạo rực
Hình ảnh kẻ chinh phu
Trong lòng người cô phụ
Em không nghe rừng thu
Lá thu kêu xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Đạo trên lá vàng khô...
Bài thơ vẻn vẹn có 9 câu, chia làm ba đoạn, mỗi đoạn lại so le, các ý trong bài thơ rời rạc, khấp khểnh, chẳng ý nào ăn nhập với ý nào. Nếu cứ theo cách hiểu máy móc của những nhà phê bình quen thói bắt bẻ, cứ đè thơ ra mà tìm tư tưởng, tìm ý nghĩa thì đây là bài thơ "đầu Ngô mình Sở". Đã thế, tác giả còn tỏ ra vụng về. Tỳ vết của sự thô vụng ấy nằm trong hai câu chẳng thơ tý nào, nó như câu văn xuôi bình giảng văn học của học sinh phổ thông:
Hình ảnh kẻ chinh phu
Trong lòng người cô phụ
Trong lòng người cô phụ
Ấy
vậy mà khi gộp tất cả lại, nằm trong một tổng thể, bài thơ hay đến lạ lùng.
Người ta không còn thấy dấu vết thô vụng đâu nữa. Đây là điều duy nhất xảy ra ở
văn học Việt Nam
và chỉ xảy ra có một lần. Cái hay của bài thơ này không nằm ở câu chữ. Nó hoàn
toàn siêu thoát, là cái hồn phảng phất đâu đó đằng sau những con chữ rất sáng
tỏ mà lại vời vợi mông lung kia. Người ta chỉ cảm thấy được, chứ không thể nói
ra được một cách rạch ròi. Đây là bức tranh thiên nhiên được vẽ bằng hồn, bằng
cả điệu nhạc rất riêng của tâm hồn thi sĩ. Bởi nó, chứ không thể ngắm nó bằng
lý trí tỉnh táo. Đã không ít nhà phê bình nghiên cứu mang lý trí ra để làm con
dao cùn mổ xẻ những con chữ rất ngơ ngác này. Có người còn viện đến cả thi pháp
học để cố hiểu cho bằng được bài thơ, lấy thi pháp làm chìa khoá mở cánh cửa
thực dụng, đi vào cõi mù mờ tâm linh này. Bằng cách vận dụng thi pháp, có người
cho đây là bài thơ nói về nỗi cô đơn không có sự chia sẻ. Không phải ngẫu nhiên
bài thơ có 9 câu mà đã có đến 3 câu điếp "Em không nghe":
Em không nghe mùa thu
...
Em không nghe rạo rực
...
Em không nghe rừng thu...
...
Em không nghe rạo rực
...
Em không nghe rừng thu...
Em
không nghe, còn anh thì nghe thấy hết. Nghe thấy hết mà không nói ra được. Đây
là cuộc đối thoại mà kẻ đối thoại lại ẩn sau sự câm lặng. Hoặc giả em cũng đã
nghe thấy, nhưng anh vẫn hỏi như vậy, nghĩa là anh không hiểu em. Đằng nào thì
cũng vẫn cứ là thiếu niềm đồng cảm. Một bên thì thổn thức, rạo rực, kêu xào
xác, một bên thì không nghe, không nghe, không nghe, cả con nai ngơ ngác, đạp
trên lá vàng khô, nghĩa là nó cũng không nghe nốt. Hiểu một cách sống sít như
thế thì thật thô thiển. Nhà phê bình đã kéo những đám mây ngũ sắc đang bay bảng
lảng trong không trung, rồi rải xuống đường làm rơm rạ lót chân, và như thế còn
đâu cánh rừng thu, tâm hồn thu cho con nai vàng trú ngụ. Mấy câu điệp khúc ấy
thực chất chỉ để tạo giai điệu rất đặc biệt cho bài thơ này. Ở đây, nhạc điệu
cũng là một phần nội dung chính làm nên hồn vía bài thơ còn ở góc độ khác, cũng
nhìn bằng com mắt lý trí, có người còn cho rằng đây là bài thơ Lưu Trọng Lư
thâu cóp của nước ngoài. Thực tế trong bếp núc sáng tác, có thể có sự trùng hợp
ngẫu nhiên. Người bình luận còn việc cớ rằng: "Thực tế Việt Nam làm gì có
khu rừng vàng. Đấy là rừng châu Âu. Rừng Việt Nam là rừng luốm nhuốm". Mùa
thu Việt Nam
đúng như Nguyễn Du mô tả trong Kiều: "Rừng th từng biếc chen hồng".
Và con nai Việt Nam
cũng nhanh nhẹn lắm, tinh ranh lắm, nó đâu có ngơ ngác "đạp trên lá vàng
khô"! Ơ hay, Lưu Trọng Lư có nhìn thiên nhiên bằng con mắt thịt đâu! Lại
phải mời Hoài Thanh về làm luật sư bà chữa cho ông thôi: "Trong thơ Lư,
nếu có cả chim kêu, hoa nở, ta cũng chớ tin. Hay ta hãy tin rằng tiếng ấy, màu
kia chỉ có ở trong mộng. Mộng! Đó mới là quê hương của Lư. Thế giới thực của ta
với bao nhiêu thanh sắc huy hoàng, Lư không nghe thấy gì đâu. Sống ở thế kỷ 20,
ngày ngày nện gót trên các con đường Hà Nội mà người cứ mơ màng thấy mình gò
ngựa ở những chốn xa xăm nào".
Tương
truyền khi viết bài thơ này, Lưu Trọng Lư đến thăm nhà một người bạn. Rồi nhân
cớ thấy cái bình gốm cổ có vẽ con nai đứng giữa núi non, Lưu Trọng Lư bèn vịnh
ngay bài thơ này. Thực chất, nếu chuyện đó là thật, thì con nai trên bình gốm
chỉ là cái cớ rất nhỏ, là tiếng động rất nhỏ đánh thức con nai vàng và khu rừng
vàng trong tâm hồn đánh thức con nai vàng và khu rừng vàng trong tâm hồn Lưu
Trọng Lư thức dậy và toả hương. Nhờ thế, thi ca Việt Nam đã có một kiệt tác thật hiếm
có, ngỡ như đó là khúc nhạc huyền bí của thần linh, chứ quyết không phải là
tiếng ca phàm tục của người đời...
Trần Đăng Khoa
.
NAT đọc chọn/ NNB vi tính giới thiệu
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét