14
khúc Đó Đưa về thơ của Nguyễn Nguyên Bảy, viết vào năm
1975, và gần 40 năm sau, mới in thành sách, do NXB Văn
Học ấn hành tháng 6/2011.
THỦNG THẲNG VỚI THƠ
Nguyễn Nguyên Bảy
@
Nguyễn Nguyên Bảy
@
9. Loại thể những khúc ca
.
Trong
quá trình lao động, tôi đã cố gằng sử dụng gần hết các thể loại có
thể sử dụng được để biểu đạt thơ. Tuy vậy, vẫn không đúc rút được
kinh ngiệm gì đáng kể, chưa định được qui luật đã là sự nhảm nhí,
định một khuôn mẫu cho thơ mà hổ thẹn ư?
Đối
với các loại thể, không hề có sự khó dễ hơn nhau, nếu lấy cái hay
làm tiêu chuẩn đo lường. Xưa nay việc định ra khó dễ phụ thuộc vào
sự quen tay, có người quen tay loại này, lại có người quen tay loại
khác. Sự quen tay gây cho người viết cảm tưởng là thể loại ấy dễ
hơn, thể loại khác khó hơn. Cũng từ sự quen tay này mà dẫn đến cái
gu thể loại, dẫn đến sự bài xích lẫn nhau, cho rằng thể loại này
cao quí hơn thể loại kia. Có thể có điều ấy được không? Không, bởi
lẽ cái hay của bất kỳ loại thể nào cũng đều có vị trí xứng đáng của
nó. Một bài thơ trữ tình hay,một đoản kịch thơ hay, và tất nhiên
cái hay đó hơn hẳn một trường ca hay một kịch thơ tồi. Dẫn một đoản
kịch thơ, Mưa Hến
/ Ngây thơ hỏi trời/ Sao không cho mưa hến/ Để nghêu thôi thèm hến/ Êm thơ sông tình/
/
Hến ra sân đình/ Lưng thuyền chao sóng/ Ngực lửa đỏ lò/ Môi tiếu
khuynh đa/ Nghiêng miếu/ Nghêu só ốc nổi mặt sông/ Ngụp tranh tròn
méo/ Chống sào phẩm phục khom lưng/ Sợ thất kinh hồn/ Đa đổ/ Miếu
đổ/ Sách tiền theo gió bay đi/ Sợ mai hậu cháu con kiệt phúc/ Nghêu
đem sợ dọa sò/ Sò đem sợ dọa ốc/ Ốc dọa đêm/ Đêm tiếu lâm cười hến/
/
Sân đình đong đưa/ Lãng trăng thuyền hến/ Ngực đông lưng hạ khe
xuân/ Tích trò chòng chành/ Ảo ảnh đưa tay cầm được/ Nguyện cầu thơm
ngát hoa chanh/ Lạy trời đừng mưa hến/ Một hến đủ mù mưa/ Đời
nghêu, đời sò, đời ốc/ Tha cho người nguyện hến ơi!/
Tự lựa chọn cho mình một thể loại sau khi đã thí nghiệm tất cả các thể loại tùy thuộc vào cái tạng chất của người viết.
Có
người rất thành công với thơ trữ tình, nhưng lại thất bại với
trường ca hoặc truyện thơ. Có người rất thành công khi viết thơ miêu
tả, có cái mênh mông kỳ vĩ của trường ca, nhưng không có cái đọng
của thơ tình.
Do
vậy, phải tự tìm cho mình thể loại thích hợp. Nhưng đối với nhà
thơ – tất nhiên ai cũng có mặt mạnh và mặt yếu của mình – nhưng
không thể không một lần thực nghiệm các giải pháp diễn đạt thơ,
không nên vội vã đầu hàng các thể loại mà mình chưa thực nghiệm. Vì
rằng: Trong cuộc sống muôn mầu muôn vẻ này cần phải có rất nhiều
thể loại mới mong diễn đạy được một cách phong phú và sâu sắc. Và
chỉ có thực nghiệm đa dạng thể loại thì mới tránh được sự đơn điệu
(Monotonce) – Nhân của mọi thất bại và nhàm chán.
Đứng
về mặt hình thức mà phân loại, thì chỉ có hai loại thơ: Thơ ngắn
và thơ dài. Sự phân loại này dễ nhìn nhận hơn là cách phân loại
theo nội dung biểu đạt – vì trong nội dung biểu đạt có thể có hàng
chục thể loại khác nhau, và trong bất kỳ thể loại nào cũng có những
quan niệm, lý lẽ rắc rối và phức tạp của nó.
Thường
thường loại bài thơ xếp loại ngắn số lượng câu không nhiều –
thường không quá 50 câu – vấn đề diễn tả trong bài thơ đó có thể là
những vấn đề lớn như: Đất nước, dân tộc, chiến tranh…Cũng có thể
là những vấn đề chỉ trong một phạm vi tâm sự cá nhân như: Tình yêu,
học đường, cảm hứng…Thực ra cái lớn nhỏ không thuộc về đề tài, mà
thuộc về năng lực của người viết. Nhưng dù đề tài thế nào nhất
thiết đều nằm trong giới hạn câu chữ. Giới hạn câu chữ quyết định
việc sử dụng vốn liếng về hình ảnh, hình tượng, âm thanh, sắc
mầu…của người cầm bút. Không thể dài dòng, miên man khi giới hạn về
số câu không cho phép. Không thể nhiều hình ành diễn đạt một ý,
không thể nhiều hình tượng chở một tư duy. Sự cô đọng là cốt lõi
của thành công. Do đó sự tự loại bỏ những hình ành, hình tượng
không cần thiết, cắt những ý, những câu không thuộc về chủ đề là
một “đau lòng” đáng có. Chính cái đó đã quyết định sự thành công.
Ngày xưa, các bài thơ ngắn được qui định bởi niêm luật rất nghiêm ngặt, sự gò bó này có làm khó dễ cho nội dung tư tưởng, song lại đòi hỏi người làm thơ phải có nhiều công phu và muốn có thơ hay người viết đã trả đúng giá cho nó. Biết bao nhiêu bài tứ tuyệt, bát cú, đã thành bất tử chỉ với 4 câu hay 8 câu. Ngày nay, các bài thơ gọi là ngắn đã không còn là ngắn nữa, 50 câu như tôi nói cũng được coi là ngắn, nhưng dưới 100 câu cũng chưa phải thơ dài. Do sự mở rộng ước lệ dài ngắn này, đã khiến tính cô đọng của thơ có bị giảm sút, nguyên nhân chính là do người viết nhiều tham lam. Cái tinh túy của vàng, bạc lẫn quá nhiều với quặng và sỏi đá. Người đọc phải thanh lọc rất nhiều mới được những hạt bạc, hạt vàng.
Loại
thơ bài dài (không giới hạn về số câu) bao gồm truyện thơ, trường
ca, kịch thơ, kinh thơ, sử thi…Ấy chính là những dòng sông, bên
cạnh cái hùng vĩ của nó lại là cái rác rưởi, củi rều, bã bọt trôi
lềnh bềnh từ nguồn ra biển cả. Loại thơ bài dài đòi hỏi một tay
nghề vững vàng, một kiến thức xã hội phong phú và sâu sắc. Không có
được cái đó, người làm thơ cứ như nữ diễn viên trong điệu múa lụa,
chỉ bằng một dải lụa, lượn tròn lượn khéo đến nhức mắt, nhàm tai.
Hạt mực đỏ vốn có, cứ được bôi ra mãi, bôi ra mãi, và càng bôi ra
nó càng nhạt dần – cái mầu hồng nhờ nhợ. Vì nếu có quan niệm thơ
dài (không bị câu chữ gò bó) là sự tung phá, hệt như người phu mỏ
không tuân theo qui trình khai thác than, cứ ra sức mở vỉa, chỗ nào
ngon xục vào mở trước. Đến khi nhìn lại công trình của mình, khối
lượng than có nhiều, nhưng đất đá cũng nhiều và trông mới nham nhở
làm sao…
Nhiều
người cho rằng thị hiếu thơ của quần chúng Việt Nam là nghiêng về
những bài thơ loại ngắn, không thích đọc những bài thơ dài. Điều
này nếu đúng thì hẳn truyện kiều với 3254 câu đã không thể là
truyện Kiều lừng lẫy hàng trăm năm nay. Thị hiếu của bất kỳ dân tộc
nào cũng vậy, ai chẳng thích hoa, vấn đề không phải dài hay ngắn,
mà vấn đề bài thơ ấy đã đạt đến độ cái đẹp của nó chưa. Đã là bài
thơ hay thì dù 4 câu hay 1000 câu công chúng cũng đều thích cả.
Không
có gì đáng xấu hổ cho rằng ta kém cỏi nếu như chưa viết được một
trường ca. Chỉ cần bằng một số bài tứ tuyệt hay bát cú chẳng phải
đã bao nhiêu nhà thơ Đường tồn tại đến muôn năm.
Đề tài đã quyết định cho việc chọn thể loại như thế nào?
Khi
viết tập “Linh thiêng, nguyện cầu, nghiệp chướng” – nội dung như
tên gọi của nó – tôi có phân vân giữa việc chọn thể loại ngắn và
dài. Thực ra với cả hai thể loại đều có thể biểu đạt được nội dung
trên. Nhưng tôi đã quyết định chọn thể loại ngắn. Vì sao vậy? Vì nếu
với thể loại dài, ý thơ sẽ lập đi lập lại, vấn đề nêu ra sẽ bị hạn
chế, và người đọc sẽ rất chán nản với những triết lý nặng nề và
buồn tẻ. Thể loại thơ ngắn sẽ khắc phục được những nhược điểm ấy.
Vì mỗi vấn đề đều có giới hạn của nó, nhiều hình thức chở cùng một
chủ đề tránh được sự đơn điệu.
Nhưng
khi viết tập sử thi ” Nước Nam Ta” – tôi đã hoàn toàn sử dụng thể
trường ca trong gần 200 trang sách với gần 6000 câu thơ. Điều này
dẽ giải thích bởi ngoài loại thơ dài ra không thể loại nào có thể
chở được nội dung trên.
Còn
với tập “Cố Hương Ca” thì tôi lại dùng kết hợp cả hai thể dài và
ngắn. Dụng ý của tôi muốn dùng sự bề thế của thơ dài để chở những đề
tài mới mang nội dung ưu Việt, để chứng minh sự đổi mới của nông
thôn ta hiện nay.
Đề
tài của một tập thơ hay đề tài của một bài thơ có ý nghĩa rất lớn
trong việc chọn thể loại biểu hiện. Nếu sự lựa chọn không thỏa đáng
thì hiển nhiên bài thơ đó bị phá hoại – hoặc hỏng về nội dung,
hoặc hỏng về hình thức. Khi mình thực sự thuộc vấn đề định diễn tả
thì chính vấn đề ấy sẽ thôi thúc tìm ra thể loại, và sự hòa đồng
bao giờ cũng rất khéo. Hiện tượng thể loại phá vỡ nội dung không
phải là không phổ biến. Ấy là khi nội dung là một giọt mực đỏ ta
lại cứ muốn hạt mực ấy thành mặt trời thơ. Hoặc một đề tài phì
nhiêu, cần sống với nó lâu hơn nữa để khám phá được nhiều hơn nữa,
thì ta lại vội vã chặt chân, chặt tay, róc thịt dựng nó lên hình
hài. Người mới vào nghề hay người có nhiều năm tuổi nghề cũng đều
chưa khắc phục được nhược điểm này. Lại phải nói đến tính nôn nóng
và tham lam. Tính nôn nóng và tham lam vô cùng nguy hại!
Trong
cả thể loại bài dài và bài ngắn, người viết thường thành công
nhiều hơn trong những câu đầu, những chương đầu. Đó không phải là
điều khó hiểu. Thực ra những câu đầu và những chương đầu người cầm
bút thuộc vấn đề hơn và làm chủ được mình hơn. Tiếp đó là công việc
bôi loang giọt mực đỏ.
Như
trên đã nói, tôi cố gắng rèn luyện hầu hết các thể loại, nhưng
trong các thể loại ấy tôi chưa tìm thấy tạng mình hợp với thể loại
nào. Với thể thơ ngắn tôi viết thông minh và sâu sắc, nhưng lạnh
lùng. Với thể thơ dài tôi đưa ra được vấn đề, nhưng nặng một bầu
không khí kể lể, còn rất nhiều quặng đất trong thơ. Và tất nhiên
phải như thế, vì nếu quá tự tin rằng mình đã làm chủ được thơ thì
còn gì để phấn đấu nữa. Với bất kỳ ai – dù người đã thiên tài – cũng
đều còn con đường trước mặt thuộc về ước mơ, còn cần phải đi xa
hơn nữa.
Tôi
chỉ nghĩ: Muốn làm cho thơ của mình muôn hình, muôn vẻ thì mình
phải diễn đạt thơ bằng chính cái muôn vẻ muôn hình ấy. Do vậy, phải
thí nghiệm – nói cách khác phải làm tất cả các thể loại thơ khác
nhau. Có như vậy mới hy vọng tìm được những cách diễn đạt mới cho
một nền thơ mới.
Trong
khi thực nghiệm một cách diễn tả mới, thường vấp ngay phải chính
cái khó khăn của chính cái mới đó. Khó khăn thường làm cho ta nản
lòng, nhưng tôi tự đặt kỷ luật cho mình phải thực hiện hết khả năng
mình, tức là phải viết cho đến câu chót – dù liền sau đó vứt đi
toàn bộ. Người làm thơ rất cần kỷ luật lao động, không thể tùy hứng
và tùy tiện. Khi đã làm gần thành công với một thể loại mới, thì
cần thiết phải tập dượt, phải làm thêm thể loại ấy với đề tài khác.
Cố sao cho những nếp nhăn trong óc mình ổn định chân dung của thể
loại ấy và không bao giờ quên nữa. Sau những vất vả của lao động,
thành quả bao giờ cũng làm cho ta sung sướng đến muốn khóc, dù
thành quả ấy chỉ là những tro tàn khi ta đốt chúng đi. Người khác
thì cho là ngớ ngẩn, nhưng quả thực tôi đã tự giới hạn khuôn khổ
bài thơ hoặc dài, hoặc ngắn của mình, và tôi cố gắng không vi phạm
khuôn khổ ấy.
Đối
với tôi giá trị làm một bài thơ dài và ngắn ngang nhau, về cường
độ lao động thì bài thơ dài chiếm nhiều thời gian hơn, phải nghĩ
nhiều hơn, đọc nhiều hơn, nhưng làm bài thơ ngắn mất ăn mất ngủ
lắm, vì sự lựa chọn và cắt xén nó.
Nhiều
bạn làm thơ khác, hẳn cũng nằm trong tâm trạng của tôi. Cũng đều
tung tẩy muốn có bài thơ ngắn lại muốn có khúc thơ dài, và để đối
lập cái đó tất cả đều giống như tôi - đều lao động. Chỉ qua lao
động hết mình mới có thể tìm thấy những bí quyết, mà những bí quyết
thì không bao giờ vĩnh cửu, nó cũ ngay, vì thế lại phải tìm những
bí quyết mới, lại lao động, một nối đuôi nhau tuần hoàn vô tận.
Có
thể nói rằng lao động trong việc tìm tòi hình thức biểu hiện là
một lao động cực kỳ nặng nhọc – không kém gì việc nhặt trong đời
sống những hạt vàng thơ. Việc tìm tòi hình thức, thể loại tác động
trở lại với việc tìm kiếm để thơ bước vào cuộc đời, khiến cho khi
đã thành thơ, người ta không còn nhận ra đâu là dấu vết tìm tòi nội
dung, đâu là dấu vết tìm tòi hình thức nữa. Người ta chỉ nói đến
thơ thôi, và người ta mở cửa lòng rước thơ vào…
Bài thơ bốn câu Chân Hương dẫn dưới đây khép lại chương sách này.
Cháy
rồi cháy hết phần thơm/ Chân hương đứng lặng nỗi buồn vô vi/ Rồi
mầu phẩm nhuộm phai đi/ Dẫu chẳng còn gì vẫn đứng chân hương
nguyễn nguyên bảy
nguyễn nguyên bảy
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét