Khoảng cuối
năm 1960, đang là học trò năm đầu ở Trường cấp II thị xã Phủ Lý, lần đầu tiên
trong đời được đọc cả một tập thơ - tập “Gửi miền Bắc” của Nhà thơ
Tế Hanh, tôi choáng ngợp như lần đầu đứng trước đại dương. Cái khoang tâm hồn
nhỏ hẹp của tôi kể từ đó chứa đầy ắp thơ Tế Hanh, dường như không còn chỗ cho
thơ của những người khác nữa. Nửa thế kỉ qua đi, những câu thơ tình “Mắt đen
một mí cười sau liễu”; “Lá phong đỏ như mối tình đượm lửa / Làn nước qua ánh
mắt ai đưa”… vẫn còn ám ảnh tôi.
Phải đến mấy chục
năm sau tôi mới hiểu rằng, nếu không bị Gửi miền Bắc mê hoặc,
chắc hẳn tôi đã không “thử” làm thơ, để rồi sa chân vào làm thơ “thật” lúc nào
không biết. Những bất hạnh, rủi ro chủ yếu tôi gặp trong đời, và cả những nỗi
đau tôi gây ra hoặc mang lại cho người khác, suy cho cùng, đều bắt nguồn từ thơ
đều dính dáng đến thơ, nên có thể nói rằng, với tôi, nếu không làm thơ biết đâu
cuộc đời lại đã chẳng êm ả dễ chịu hơn! Tôi có quan hệ giao tiếp với gia đình
nhà thơ Tế Hanh từ hơn hai chục năm trước, khi ông sức còn khoẻ mắt còn sáng,
bà Trần Lâm Yến, phu nhân của nhà thơ, vẫn đang làm việc ở Trung ương Hội Liên
hiệp phụ nữ Việt Nam.
Cùng với nhà văn Triệu Huấn (đã mất), Tế Hanh đã rất nhiệt tình trong việc kí
tên vào đơn giới thiệu tôi vào Hội Nhà văn Việt Nam. Mỗi lần ra Hà Nội tôi thường
đi bộ đến thăm ông bà ở số 10 phố Nguyễn Thượng Hiền, chụp vài kiểu ảnh, nghe
ông đọc dăm bẩy bài thơ mới viết, rồi cũng khoe với ông bà mấy bài thơ vừa làm.
Lần nào cũng vậy, ngồi một chặp, tôi cùng ông đi bộ hết phố Nguyễn Thượng Hiền,
rẽ phải vào phố Yết Kiêu để đến quán phở gà quen thuộc. Có hôm tôi trả tiền, có
bữa, trước khi ra khỏi cửa, tôi thấy bà Lâm Yến kín đáo nhét vào túi áo chồng
khoảng chục ngàn đồng. Vào những năm cuối thập niên tám mươi đầu thập kỉ chín
mươi của thế kỉ trước, một bát phở gà cũng như phở bò loại ngon ở Hà Nội có giá
ba ngàn đồng, rồi tăng lên năm ngàn đồng. Ăn phở ngày ấy đã là “sang trọng”
lắm. Nhà thơ Hà Nội nổi tiếng V. khi được tôi mời ăn phở đã nói rất thành thực
“ngoài này dăm sáu tháng bọn mình mới dám bước vào quán phở”. Nhà văn Nguyễn
Khắc Trường vừa cười khề khề vừa nói “khiếp thật, ở Sàigòn ra đây, ông nào nói
đến “bạc triệu” cũng cứ nhẹ như không”. Một triệu ngày ấy mua được khoảng ba
chỉ vàng 96%. (Sau Tết Kỉ Sửu 2009, bát phở có chất lượng kha khá đã được phong
là “phở cao cấp”, ngồi ăn ở vỉa hè phố Hai Bà Trưng, gần ngã tư Hàng Bài, đã có
giá 31.000 đồng. Thấy tôi gắp miếng thịt nào lên cũng không cho vào miệng ngay
mà săm xoi ngắm nghía, nhà hàng biết chắc tôi đã phát hiện ra trò “phở bò
lai…heo”, liền đến thì thào vào tai tôi “bác ăn đi, em chỉ tính bác…hai chục
nghìn!”).
Ngày ấy Nhà thơ Tế
Hanh cỡ tuổi tôi bây giờ, còn tôi mới ngoài bốn mươi, vẫn được khen nịnh ‘cao
to đẹp giai”, mỗi khi ngó hơi kĩ vào mặt cô gái nào đó vẫn còn khiến người ta
đỏ mặt e thẹn chứ chưa khó chịu như bây giờ. Có đến mấy lần hai thầy trò tìm
đến quán bánh cuốn của một bà cũng ở phố Yết Kiêu mà theo lời nhà thơ Tế Hanh
thì đương thời nhà văn Nguyễn Tuân vẫn thường ăn bánh cuốn nóng chấm nước mắm
cà cuống, uống rượu ngang “cuốc lủi” ở đây. Bà này năng đi lễ chùa, ít nhiều có
“máu” nghệ sĩ, bán hàng khá tùy hứng, có khi đóng cửa dăm ba ngày, tôi theo Tế
Hanh tìm đến mấy lần vẫn không gặp được bà. Thật tiếc!
Gần giữa năm 1990,
nghe lời “xui dại”, tôi đã nằng nặc đòi chuyển từ Tạp chí Văn TP. Hồ Chí Minh
về làm đại diện Nhà Xuất bản Lao Động tại phía Nam, lần đầu ra “xem mắt” cơ
quan ở Hà Nội, tôi mang theo con trai út Nguyễn Hoàng Hải, gọi trong nhà là
Bờm, chưa đầy hai tuổi. Tàu đến Nha Trang, cánh cửa sổ bằng gỗ, được ngành
Đường sắt Việt Nam
thiết kế đúng theo mẫu máy chém hiện còn được trưng bày tại đường Võ Văn Tần ở
Sài Gòn, từ trên cao xả phập xuống chặt ngang bàn tay phải của cháu. Chỉ mấy
giây đồng hồ trước khi cánh cửa sổ - máy chém “rơi tự do” xuống, đầu cháu cổ
cháu vẫn còn gối lên thành cửa, thế nên con gặp nạn mà cả nhà vẫn ăn mừng,
chẳng tiếc tiền bạc, hào phóng đến độ lãng phí, tiêu toàn bộ số tiền cháu được
ngành bảo hiểm xã hội chủ nghĩa ưu việt của đất nước bồi thường thiệt hại, để
mua hẳn một con gà, lại còn những mấy kí trái cây (chôm chôm, quýt, cóc ổi) lễ
tạ thần thánh tổ tiên đã phù hộ độ trì để “đại nạn” hóa thành “tiểu nạn”. Cả
chục năm sau, lần nào đến nhà số Mười phố Nguyễn Thượng Hiền tôi cũng được ông
bà hỏi “bàn tay bó bột của cháu đã lành chưa”, “có để lại dị tật không”, “liệu
có ảnh hưởng đến việc cầm bút?”. Tôi thưa “sau này em cho các con cầm búa chứ
không cầm bút”. Nhà thơ cười, ngồi yên lặng đến mấy phút…
Quan hệ xem ra thân
tình, vậy mà, theo nhà văn Hoài Anh, có lần tôi đã bị Tế Hanh nói với ông tôi
“ba xạo”. Chả là, trong lần ra Hà Nội cuối năm ấy, khi đến chào ông bà để hôm
sau lên tầu vào Nam, tôi được nhà thơ nhờ chuyển một bài thơ viết tay đến nhà
văn X. lúc đó đang làm tổng biên tập một tạp chí văn chương ở TP. Hồ Chí Minh.
Tôi đưa bài thơ tận tay ông tổng biên tập, cứ ngỡ nhà thơ có cỡ như Tế Hanh thì
nhất định bài thơ sẽ được in, nhưng “nghĩ vậy mà không phải vậy”. Hình như sau lần
ấy ông không gửi in bài thơ này ở đâu nữa.
Tế Hanh cùng với nhiều nhà văn nhà thơ được mời đến dự đêm
thơ kỉ niệm lần thứ bốn mươi ngày mở Đường Trường Sơn (19/5/1959) tại Cung
Thiếu nhi Hà Nội. Đang chăm chú nhìn lên sân khấu, nhà thơ đột nhiên gục đầu
xuống bàn. Mọi người cấp tốc đưa ông vào cấp cứu tại Bệnh viện Hữu Nghị. Lúc ấy
là 21 giờ ngày 4 tháng 5 năm 1999. Sau nhiều giờ cấp cứu, nhà thơ tỉnh lại, nói
với bà Lâm Yến: “Tôi còn ít tiền trong túi áo, bà cất đi để mua thuốc chữa
mắt”. Đến 23 giờ Tế Hanh vẫn còn nhận biết nhưng vào lúc quá nửa đêm ông thổ ra
huyết rồi chìm vào cơn hôn mê dai dẳng ngỡ như không bao giờ còn hồi tỉnh lại
nữa. Tám giờ sáng hôm sau, kết quả chụp điện cho thấy máu đã tràn trong hộp sọ,
chứng tỏ trước đó khá lâu đã có hiện tượng xuất huyết não ở Tế Hanh. Nằm viện
hai tháng, cơn nguy kịch đã qua nhưng dấu hiệu hồi phục chưa xuất hiện, ông
được bệnh viện cho về nhà điều trị ngoại trú. Mấy tháng đầu đôi khi nhà thơ
cũng còn nói được những câu đơn giản “bà dọn nhà đi, các nhà văn trẻ sắp đến
chơi”, hoặc “nhớ kê lại bàn ghế, các anh ở hội nhà vản sẽ đến” v.v…Cũng có lần
ông “dự báo” đúng, nhưng thường thì chờ đợi mãi vẫn chẳng thấy ai.
Căn hộ của gia đình
nhà thơ ở số 10 phố Nguyễn Thượng Hiền, có cầu thang xây bằng gạch kiểu “một
đoạn” ở phía ngoài, gồm hai phòng khá rộng. Những ngày mới lâm bệnh ông vẫn
được bà Yến dìu đi bộ từ phòng nọ sang phòng kia hoặc dọc theo hành lang, nhưng
ít tháng sau nhà thơ không còn sử dụng được đôi chân nữa, nếu không ngồi trên
xe lăn chỉ còn có thể nằm dài trên giường. Bà Trần Lâm Yến cho hay, trừ đại não
bị tổn thương khá nặng, còn các bộ phận khác trên cơ thể ông xem ra vẫn hoạt
động bình thường. Đã từ lâu rồi ông chỉ nói được những câu ngắn có hai - ba từ,
thường kêu đau kêu “mệt lắm” nhưng không hiểu đau ở đâu. Giọng nói của ông lào
phào, chỉ có một phần hơi lọt qua miệng, còn phần lớn thoát ra theo lỗ chích ở
cổ. Thường thì nhà thơ chỉ mấp máy môi, không hiểu ông định nói gì. Hôm tôi đến
thăm, bà Lâm Yến lay lay vai ông, nói: “Anh Hanh nè, có Nguyễn Thái Sơn ở Sài
Gòn mới ra, đến thăm…”, ông vẫn nằm bất động, mắt hướng lên trần nhà nhưng hai
tròng mắt chậm chạp đưa qua lại như kiếm tìm. Tôi cúi xuống, thấy hai tròng mắt
ông ngấn nước. Tôi cùng bà Yến đỡ ông ngồi dậy, nhà thơ vẫn còn khá nặng,
khoảng bảy chục kí lô. Phải có người đỡ ông mới có thể ngồi trên mép giường
thõng hai chân xuống sàn nhà. Khí quản, thanh quản nhà thơ được chích một lỗ
nhỏ bằng đầu đũa phía dưới cằm và được bảo vệ bằng miếng gạc nhỏ có hai sợi dây
buộc vòng ra sau cổ. Miệng vết chích thành sẹo, chai cứng, dường như đã dần
quen với nhiệm vụ hô hấp thay cho mũi, chia xẻ chức năng phát âm với miệng. Da
dẻ nhà thơ trắng mịn do cớm nắng, và mát lạnh, khiến tôi thoáng giật mình lúc nắm
bàn tay ông. Lạ một điều, và cũng thật may mắn, nằm bất động đã nhiều năm trời
nhưng thân mình nhà thơ không bị sưng tấy lở loét, khác với những người nằm
liệt giường lâu ngày ta từng gặp. Bà Lâm Yến cho biết ông chưa mất cái răng
nào, thích ăn các loại trái cây như cam quýt, chuối, nhất là đu đủ. Nhà thơ có
thể tiếp nhận thức uống đồ ăn bằng thìa, nhưng tốt nhất là bằng bơm tiêm. Đôi
ba ngày, mỗi khi thấy ông khó thở, người trong nhà lại dùng máy hút đờm và mở
van để khí ôxy truyền theo ống nhựa vào mũi.
Áp chặt bàn tay mềm
nhũn trắng mịn mát lạnh của ông vào mặt mình, tôi phải cố để không lộ vẻ mềm
yếu. Phải chăng tôi đang được chứng kiến đang phải chứng kiến những tháng ngày
cuối cùng của một trong những nhà thơ lớn của đất nước, được độc giả biết đến
ngay từ những sáng tác đầu tiên, vừa mới xuất hiện trên văn đàn đã lập tức nổi
tiếng. Lại nhớ một đêm ở Bệnh viện Thống Nhất năm nào, trong những canh giờ
cuối cùng còn lại với Dương Thế của nhà thơ Chế Lan Viên, trước khi cùng những
người trong gia đình ông và nhà thơ Bảo Định Giang (đã mất, khi đó đang điều
trị ở bệnh viện này) đỡ ông lên xe băng ca rồi đẩy xuống nhà lạnh. Không dễ gì
có được sự vinh hạnh, cũng có thể cho là may mắn đó, khi ta được ở bên các vĩ
nhân danh nhân trong những thời khắc thiêng liêng có một không hai ấy; nhưng
quả là, sau đó nhiều năm, cũng có thể là mãi mãi, cảm nhận về sự tiếc nuối xót
sa thương cảm vẫn cứ còn nặng nề đeo đẳng trong lòng, khó có thể vơi nhẹ…
Xuân Diệu, Thế Lữ ra
đi, rồi Chế Lan Viên, rồi Trần Huyền Trân; tiếp sau Hồ Dzếnh là Tố Hữu, là
những nhà thơ khác. Cánh Rừng Thơ Việt thưa thớt dần những đại thụ cổ thụ. Giữa
những mảng rừng “tái sinh” vạt rừng “trồng mới”, với bạt ngàn cao su, lá tròn
lá nhọn rộng dài, vài cây cổ thụ thực sự cỡ Tế Hanh đang cạn dần nhựa, khô dần
rễ, không biết còn trụ được bao lâu.
Ngày 4 tháng 5 -
2009 là tròn mười năm nhà thơ Tế Hanh bị tai biến não. Trong khoảng sáu - bẩy
năm đầu, hy vọng về một sự hồi phục kì diệu nào đó ở ông ít nhiều vẫn còn le
lói trong mỗi chúng ta, nhưng theo thời gian, hi vọng ấy cứ tàn lụi dần. Nhà
thơ vẫn tồn tại như một thực thể, mặt không vui không buồn, có dáng nét của trẻ
thơ, và hình như ông không còn ý thức được thế giới nơi mình đang tồn tại.
Trong những năm qua, lâu lâu tôi cũng có ra Hà Nội, không ít lần đứng trước ngõ
“nhà số mười” nhưng không bước lên cầu thang. Tôi e sợ không khí buồn bã và cảm
giác nặng nề dai dẳng sau những lần chứng kiến nhà thơ trong tình trạng ấy.
Tế Hanh nằm đó nhưng
hồn vía ông có vẻ như không còn bám víu vào thân xác nữa, và tôi cũng không thể
tự trả lời, rằng, trong những năm tháng này, với Tế Hanh, tình trạng mất khả
năng nhận biết là “may mắn” hay bất hạnh. Nằm bất động đến mười năm trời, hoàn
toàn tuyệt vọng về sự bình phục mà lại vẫn tỉnh táo, vẫn nhận thức được hoàn
cảnh thì khủng khiếp quá, chịu làm sao nổi. Chúc nhà thơ khỏi bệnh và sớm bình
phục e đã là quá muộn, không còn cần thiết, và có lẽ là tự dối lòng, nên tôi
chỉ mong ông cứ “vô tri vô giác vô cảm nhận” như thế cho đến lúc trút hơi thở
cuối cùng.
Tiền nhân bảo rằng
sau khi rời bỏ thân xác, linh hồn mỗi người sẽ phải đi đò ngang qua giòng Sông
Mê (người châu Âu gọi là sông Styx), cập vào
Bến Lú để đến Cõi Âm. Riêng với nhà thơ Tế Hanh, phải chăng trong nhiều năm qua
hồn vía ông khi thì đã lên đò, lúc lại quay về bến đợi, và con đò ngang thần
linh ma quái muôn thuở, với riêng nhà thơ, đã hoá thành đò dọc, cứ trôi dạt
giữa hai bờ giòng Sông Mê. Càng đau càng xót sa khi ta không thể làm gì nói gì
mong gì chờ đợi điều gì tốt lành…
_____________
(Trước khi gửi bài viết này đến Giáo sư Trần Hữu Dũng ở Hoa
Kỳ, vào lúc 20 giờ 15 phút ngày chủ nhật 19/4/2009, tôi có cuộc điện đàm với bà
Trần Lâm Yến, dưới đây là một số thông tin về nhà thơ Tế Hanh từ cuộc trao đổi
này:
- Đã khá lâu rồi, suốt ngày đêm nhà thơ nằm dài trên giường,
không còn khả năng ngồi dậy nữa. Hai chân teo tóp dần nhưng thân hình Tế Hanh
còn khá đầy đặn, da dẻ gần như không bị lở loét, bầm dập.
- Mắt nhắm nghiền, lâu lâu mở ra vài giây nhưng không còn
biểu lộ, nhận biết, kể cả khi có người nắm tay, chào hỏi.
- Nguồn dinh dưỡng nuôi cơ thể là súp loãng, sữa, nước trái
cây…,vẫn bơm vào miệng bằng bơm tiêm loại lớn như gần mười năm qua.
- Bà Trần Lâm Yến năm nay đã tám mươi tuổi, cũng đã yếu,
phải thuê người giúp việc để tiện việc chăm sóc chồng.
Sài Gòn, ngày 20 tháng 4, 2009
Bài Nguyễn Thái Sơn/ Tác giả gửi bài
nnb vi tính giới thiệu
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét