Thứ Năm, 6 tháng 6, 2013

RƯỢU TRONG TRUYỆN KIỀU (3)

RƯỢU TRONG TRUYỆN KIỀU/3/
Khảo Luận
ĐƯỜNG VĂN - HOÀNG DÂN



4.    Một mình Kiều với… Rượu

         Đặc điểm chung của cả 4 lần Kiều một mình uống rượu, với rượu là Nguyễn Du đặc tả dòng tâm tư của nhân vật trữ tình trong 4 tình huống – hoàn cảnh khác nhau bằng cách nhập thẳng vào nhân vật để độc thoại, độc thoại nội tâm. Tâm trạng chủ yếu – nổi bật của nhân vật trữ tình là sự cô đơn vò võ, buồn nản cực độ, chán đời, chán mình, tự phủ định mình ngày càng triệt để. Kiều không biết chia sẻ, tìm sự đồng cảm với ai, ở ai nên đành chỉ còn một cách duy nhất là sống lại quá khứ, nhớ về những người thân yêu nhất với những kỷ niệm thiêng liêng hay ngọt ngào nhất, đã qua từ lâu và dường như sẽ không bao giờ trở lại, gặp lại. Trong đêm trao duyên, trong lời tâm sự đẫm nước mắt với em gái Thúy Vân, thực chất vẫn là lời độc thoại của Thúy Kiều (vì Thúy Vân hoàn toàn im lặng trong suốt cả cuộc trao duyên dầy hệ trọng ấy). Ngòi bút miêu tả, phân tích tâm lý bậc thầy Nguyễn Du đã sáng tạo ra những câu thơ chan chứa cảm thông, yêu thương, chia sẻ với người con gái tài hoa bạc mệnh. Đó cũng chính là những câu thơ đẹp nhất, hay nhất, sâu sắc, hấp dẫn nhất về nghệ thuật thể hiện thế giới bên trong, thế giới tâm hồn đầy bí ẩn của con người. Trong đó, rượu – uống rượu góp một phần không nhỏ tạo nên thành công đi trước thời đại. Càng thú vị hơn, khi khảo sát từng lần bên chén rượu độc ẩm, Kiều ngồi một mình, mơ màng, đăm chiêu hồi tưởng, ta vẫn thấy ngòi bút Nguyễn Du biến hóa linh hoạt, không hề chung chung, lặp lại.

4.1.

Thề hoa chưa ráo chén vàng
Lỗi thề, thôi đã phụ phàng với hoa.
    
         Tâm trạng nổi bật trong hồi tưởng lần đầu của Kiều là mặc cảm tội lỗi do mình gây ra với chàng Kim, người yêu lý tưởng đầu đời. Theo dõi câu chuyện gia biến mắc oan vừa xảy ra với gia đình Kiều cùng quyết định và hành động kịp thời, đúng lúc (bán mình chuộc cha) của nàng đã chuyển nguy thành an, ta thấy Kiều thật xứng đáng là trụ cột duy nhất của nhà họ Vương trong hoàn cảnh ấy. Thông minh, bản lĩnh, ý chí, nghị lực, đặc biệt là dám hi sinh tất cả tấm thân đáng giá ngàn vàng của mình, tình yêu đầu vừa mới hẹn thề để đền ơn sinh thành của cha mẹ và cứu hai em thoát vấn nạn tày trời. Suốt mấy ngày nước sôi lửa bỏng vừa qua, chẳng có lúc nào Kiều nghĩ riêng cho bản thân, cho mối tình riêng của mình. Mãi đến khi công việc tạm yên, khi cha, em đã được tha về, khi cả nhà đang mệt mỏi chìm trong giấc ngủ, thì riêng Kiều vẫn một mình nàng, ngọn đèn khuya, mới có dịp nghĩ tới chuyện riêng của mình, trong tâm trạng chưa nguôi thảng thốt vì đại họa vừa qua như cuồng phong bão tố, thoắt đảo lộn tất cả, phá nát, đập tan, cắt phăng mối tình đầu đẹp như mơ mà nàng vừa mới được nếm qua hương vị. Dòng độc thoại nội tâm dâng tràn miên man, (cơ hồ chỉ tạm dứt khi emVân chợt tỉnh giấc), không biết bao giờ khắc đã trôi qua trong nước mắt ròng ròng: Dầu chong trắng đĩa, lệ tràn thấm khăn. Nhưng thủy chung và nổi lên choán ngợp tâm tư Kiều đêm ấy chỉ hướng về Kim Trọng với tình yêu càng thêm bỏng cháy, giãy giụa, tuyệt vọng, với mặc cảm mình chính là người đầu tiên phản bội lời thề, là kẻ chẳng ra gì! Nàng tự giày vò mình, dằn vặt mình, tự kết tội mình một cách nghiêm khắc, nặng nề. Trước tiên là nhớ tiếc cái đêm trăng thề nguyền trong vườn Thúy vừa mới hôm nào:
Thề hoa chưa ráo chén vàng
          Câu thơ hồi tưởng tái hiện sự việc xen kẽ 2 từ Hán Việt trang nghiêm, sang trọng (thề (dưới) hoa, chén vàng) với 2 từ thuần Việt nôm na, gần gũi (chưa ráo) thể hiện phần nào cảm xúc ngổn ngang, tâm trạng rối bời tiếc nuối của nàng Kiều. Giờ đây, không còn là chén xuân, chén hà, chén quỳnh… nữa, mà là chén vàng (tất nhiên vẫn là cách nói ước lệ), với nghĩa chén bằng vàng, chén cực quý hiếm để đựng rượu thề. Mới thấy Kiều coi trọng nghi lễ thề bồi ấy đến thế nào. Vậy mà, bỗng nhiên nghi lễ trang nghiêm ấy, lời thề thiêng liêng ấy bị phản bội phũ phàng, bị giày xéo tàn nhẫn! Mà kẻ phạm tội đáng nguyền rủa ấy, khốn nạn thay, lại do chính bản thân nàng tự gây ra!
              Câu thứ hai: Lỗi thề, thôi đã phụ phàng với hoa!
        Với cụm từ lỗi thề, ý nhận lỗi, nhận tội được đặt lên đầu một cách dụng ý hoàn toàn chịu trách nhiệm về mình. Từ thôi vang lên như tiếng thở than não nuột, đành lòng cam chịu trước hậu quả một sự việc đã rồi. Thực ra, trong hoàn cảnh cụ thể ấy, với tính cách và tâm hồn Kiều, giải pháp của nàng là hoàn toàn đúng đắn, khả thi và hiệu quả duy nhất. Nàng cũng biết rõ như vậy. Nhưng đến phút này, khi sóng gió tạm yên, nghĩ đến chuyện riêng của mình, mới thấy càng giận thân, càng đau xót, tiếc nuối, nhất là khi nghĩ về chàng Kim. Kiều thuộc loại con gái hết mình vì tình yêu, yêu người yêu hơn chính bản thân mình. Lời thề vàng đá: trọn đời chẳng ôm cầm thuyền ai còn văng vẳng bên tai, chén vàng rượu thề còn chưa ráo, hơi rượu quý còn thoang thoảng đâu đây…mà nàng đã phụ bạc chính những lời nàng mới khấn nguyện hôm nao, phụ bạc chén quỳnh nàng vừa nhắp đêm nao, thì còn gì đau đớn, khổ sở hơn! Mặc cảm tội lỗi, phản bội này sẽ còn đeo đẳng, day dứt, ám ảnh Kiều suốt 15 năm lưu lạc, đến cả trong đêm đoàn viên hội ngộ, và có lẽ suốt cả cuộc đời người đàn bà tài hoa bất hạnh.
     Thế là, chén rượu thề mới đêm kia sóng sánh ánh trăng vàng, ngỡ chừng vĩnh viễn gắn chặt  hai con tim, có ngờ đâu, đêm nay lại thành chén nhớ, chén thương, chén tiếc, chén lỗi, chén lệ đong đầy nước mắt yêu thương, nhớ tiếc, hối lỗi, đau đớn, cô đơn vô hạn… của  một mình Vương Thúy Kiều.

4.2.

Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.

          Không đơn giản chỉ là lời kể lể vân vi, khúc nhôi câu chuyện tình sâu kín lần đầu tiên hé lộ cho đứa em gái ruột biết để nhờ cậy nó một việc tối quan trọng và khó nói mà còn là dòng hồi ức chở nặng nỗi lòng đau xót, đắng cay, tiếc nuối, yêu thương, ân hận của nàng Kiều hướng về chàng Kim vô vàn yêu dấu. Kiều nói với em nhưng thực chất là lại thổn thức với lòng mình, sống lại từng kỷ niệm thần tiên, thiêng liêng cùng người tình đầu tiên, vừa mới đem nao nay thoắt đã thành kỷ niệm, thành dĩ vãng. Trong giọng kể lể chậm rãi, đượm đà vẫn thoáng nhói từng cơn nấc nghẹn: khi…, khi... Một lần nữa chén thề được nhắc tới trong đêm thề nguyền như còn tỏa hương nồng nàn đâu đây…

4.3. 

Tưởng người dưới nguyệt, chén đồng
Tin sương luống hãy rày trông mai chờ
Bên trời góc bể chơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai?

          Đây là lần thứ  3 Kiều nhớ Kim, đoạn trước lầu Ngưng Bích nổi tiếng thi trung hữu họa, hữu nhạc, hữu tình… xưa nay. Nói là lần thứ 3 vì trước đó, sau đêm thất thân với Mã Giám sinh, Thúy Kiều trong đau đớn, ê chề càng tiếc hùi hụi cho chàng Kim. Nguyễn Du cách ta hơn 200 năm đã viết được những câu thơ không chỉ chứa chan đồng cảm mà còn rất tâm lý, rất hiện đại: Phẩm tiên rơi đến tay hèn/Hoài công nắng giữ mưa gìn với ai?/Biết thân đến bước lạc loài/Nhị đào thà bẻ cho người tình chung/Vì ai ngăn đón gió đông?/Thiệt lòng khi ở, đau lòng khi đi/Trùng phùng dù họa có khi/Thân này thôi có ra gì mà mong…(Chỉ tiếc là cả đoạn độc thoại vô cùng thành thật, mạnh bạo và đau đớn ấy không nhắc gì đến rượu – uống rượu nên không thuộc phạm vi khảo sát của bài này).
          Nếu ở lần đầu hồi tưởng, chuyện cũ vẫn còn nóng hổi, rớm máu, sặc sụa mùi vàng mới trao (hẳn ít nhiều liên quan đến việc tác giả chọn dùng từ chén vàng?), Kiều chủ yếu nhớ là nhớ đến đêm thề, lời thề với mặc cảm lỗi thề, phụ thề, phụ phàng với hoa …Hình ảnh chàng Kim chưa phải là trung tâm của nỗi nhớ  như đã phân tích ở trên, thì lần này, sự việc đêm thề nguyền trọng đại dưới trăng vàng đã mờ đi, lùi xuống hàng thứ hai để hình ảnh chàng Kim vời vợi mà gần ngay gang tấc hiện lên trước mắt đang cùng nàng nâng chén đồng tâm, đồng ý, đồng tình tạc một chữ đồng đến xương. Nhà thơ chọn tưởng chứ không dùng nhớ, hoặc nghĩ… là khá tinh  tế; vì tưởng nói rõ hơn cái khoảng cách thời gian – không gian so với lần nhớ trước, đã càng rộng, càng xa, ….lắm rồi. Hình ảnh dưới nguyệt chén đồng (dưới vầng trăng vằng vặc giữa trời, đôi uyên ương cùng uống cạn chén rượu thề), một lần nữa và sẽ còn nhiều lần nữa… hiện lên ngọt ngào mà nhức buốt trong tâm trí Kiều. Trước cảnh thật hiện tại bát ngát biển xanh, cát càng cồn nọ, vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung, trong nỗi bẽ bàng của người vừa quyết quyên sinh cho thoát nợ đời mà không thể thoát, Kiều ngồi một mình trong căn lầu vắng mà chia tấm lòng. Nỗi nhớ lại ào ạt, cuộn lên, cuộn lên như sóng cồn ngoài khơi. Và lạ thay, hợp lý, hợp tình thay, người đầu tiên hiện lên trong trí tưởng của người con gái họ Vương không phải là hai thân, em gái hoặc em trai mà là Kim lang yêu dấu. Nhưng lần này, mặc cảm tội lỗi phụ lời thề hình như, theo thời gian, có giảm đi ít nhiều phần dữ dội, cào xé trái tim nàng cũng là hợp quy luật của tình cảm, tâm lý con người. Giờ đây, nổi lên trong nỗi nhớ da diết diết da là tình yêu thương, xót xa đắm đuối, hoàn toàn nghĩ về, hướng về, đặt mình vào vị thế và tâm trạng của chàng Kim để cùng chàng đang khắc khoải rày trông mai chờ tin Kiều nhi. Như nghe tiếng chàng vượt biển, vọng về hòa cùng tiếng gió, tiếng sóng, khi xa, khi gần: - Kiều  nhi! Kiều nhi! K - i – ề - u… nhi- i…Nàng ở đâu???!!!
          Kiều dường quên hết hiện tại, bản thân, để sống lại, sống trong nỗi nhớ, hồi tưởng, thấy như hình ảnh hào hoa phong nhã của chàng Kim lồng lộng vừa cạn xong chén rượu lóng lánh trăng vàng đã phất tay áo lướt trên làn sóng biếc, ung dung, hớn hở đến cạnh nàng. Nhưng Kiều vừa giơ tay định nắm tay chàng thì Kim lại mỉm cười lùi ra xa, xa mãi, rồi quay lưng mờ dần, mờ dần, mất hút cuối làn sóng bạc. Kiều khản tiếng gào thảm gọi theo… nhưng thảy đều vô vọng.…!!! Lại chập chờn hiện lên cảnh chén đồng dưới nguyệt đêm nao, ngây ngất cùng ai… để rồi lại chạnh nghĩ đến bản thân mình trong cơn ba đào hiện tại: Bên trời góc bể  bơ vơ/Tấm son gột rửa bao giờ cho phai? Với mặc cảm tấm lòng son sắt đinh ninh lời thề  này đã bị nhục nhã, nhơ bẩn, hoen ố,… đến tận cùng!
          Hơi rượu thề vẫn như còn thoang thoảng đâu đây trong bẽ bàng, ngậm ngùi, tủi hổ lại vừa nhoi nhói lên trong trái tim rỉ máu của người con gái họ Vương, trong đêm trăng cô đơn não nùng ở lầu Ngưng Bích.

4.4.
4.4.1
                                                                
Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh
Giật mình, mình lại thương mình, xót xa!

Ai chưa từng một lần say rượu đến hôn mê thì cũng khó mà thấm thía cái trạng thái “tỉnh rượu”. Đó là cái khoảnh khắc mà thân thể ra rời, mồm miệng đắng ngắt và đầu óc thì hoàn toàn trống rỗng. Bởi sau cơn ngộ độc một hàm lượng cồn quá lớn, con người từ chỗ chợt quên tất cả (hôn mê) đột ngột chuyển sang trạng thái chợt nhớ lại tất cả (tỉnh rượu); nhớ một cách đầy đủ, chính xác và lạnh lùng. Nhớ để có một cuộc đối thoại sòng phẳng, quyết liệt với chính mình. Cho đến nay, vẫn có ít nhất hai cách hiểu về dòng 6 : Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh:
-  Hai cụm từ  kể - tả hai thời điểm khác nhau mà Kiều đều có trạng thái “Giật mình”.
-  Hai cụm từ  kể - tả một thời điểm vừa có quan hệ nhân quả, vừa có quan hệ tăng tiến để đặc tả trạng thái “giật mình” của Kiều (Diễn nôm: Khi tỉnh rượu vào lúc tàn canh thì Kiều giật mình và thương mình, xót xa).
Chúng tôi nghiêng về cách hiểu thứ nhất, căn cứ vào cấu trúc ngữ pháp và cách ngắt nhịp đột biến của dòng thơ này.
Về cấu trúc ngữ pháp, ta thấy:
- Trong cụm danh từ “Khi tỉnh rượu” thì “Khi” là danh từ trung tâm, “tỉnh rượu” là định ngữ làm rõ nghĩa cho “khi” và trả lời câu hỏi: Khi nào? Nhưng ở trong văn bản thì “tỉnh rượu” không chỉ thực hiện chức năng cú pháp, mà quan trọng hơn, còn thực hiện chức năng thẩm mĩ. Do đó, người ta gọi là “định ngữ nghệ thuật. “tỉnh rượu” không chỉ làm rõ nghĩa cho “khi” mà còn xây dựng hình tượng về “một khoảnh khắc thời gian tâm trạng”. Như vậy, “Khi tỉnh rượu” là một thời điểm độc lập với “lúc tàn canh”.
- Tương tự, trong cụm danh từ “lúc tàn canh” thì “lúc” là danh từ trung tâm, “tàn canh” là định ngữ làm rõ nghĩa cho “lúc” và trả lời câu hỏi: lúc nào?... Nói cách khác, “lúc tàn canh” là thời điểm độc lập với “Khi tỉnh rượu”. Trong thực tế, hai thời điểm này có thể diễn ra gần nhau, thậm chí trùng nhau, nhưng về bản chất, chúng vẫn độc lập tương đối. Vả lại, trạng thái tâm lí của khoảnh khắc “tỉnh rượu” và “tàn canh” vốn có khá nhiều khác biệt; trong đó “tỉnh rượu” là chợt tỉnh lại sau một cơn hôn mê vì rượu (có thể là ngộ độc rượu), còn “tàn canh” (khoảng 3 - 4 giờ sáng) là lúc chợt thức giấc và không thể nào ngủ lại hoặc ngủ tiếp được nữa, đành thức trắng đến sáng. Trong khoảng thời gian này con người thường nghĩ ngợi miên man, vẩn vơ, thảng thốt, vui buồn… Cả hai trạng thái “tỉnh rượu” và “tàn canh” đều vô cùng mệt mỏi, nhưng “tỉnh rượu” mệt vì rã rượu, còn “tàn canh” mệt vì thiếu ngủ….
Về cách ngắt nhịp của cả câu lục bát: Dòng 6 thường có nhịp 2/2/2, dòng 8 là 4/4 nhưng ở đây là nhịp 3/3 và 2/4/2 - một cách ngắt nhịp đột biến, lạ. Cách ngắt nhịp này dường như đã góp phần mô phỏng nhịp điệu tâm hồn (điệu hồn) bất an của nhân vật vào những thời điểm khác nhau; bởi nếu chỉ là một thời điểm thì có thể nhịp thơ sẽ là 2/2/2 và 4/4 chăng? (chẳng hạn, để minh chứng: Mỗi lần/tỉnh rượu/tàn canh; Giật mình thon thót/thương mình xót xa!).
Nếu cuộc đời là một sân khấu lớn thì mỗi người là một diễn viên, diễn điêu luyện hay ngờ nghệch tuỳ thuộc vào nhiều điều kiện khách quan, chủ quan. Khách quan là thời mà mỗi người đang sống với cơ man những quan hệ xã hội vô cùng phong phú, phức tạp và đầy rủi ro, bất trắc. Chủ quan là trí tuệ, khả năng xét đoán tình thế, dự cảm tương lai và khả năng tự biết bản thân.
Với quan niệm như thế, thử trả lời câu hỏi: Kiều đã thủ vai diễn của mình xuất sắc như thế nào? Chỉ riêng trong việc uống rượu, Kiều cũng đáng là bậc thầy của những đệ tử lưu linh có hạng. Bậc thầy ở chỗ, cần say (để tìm quên, để giải sầu…) thì say, cần tỉnh nhưng vì công việc thì phải giả vờ say. Giả vờ say nhưng lại như say thật. Hư hư thực thực, biến ảo khôn lường. Tôi không tin tất cả những lần uống rượu tiếp khách, Kiều đều bị ngộ độc rượu đến mức vô tri vô giác. Thế thì làm gì có mối tình “Trước còn trăng gió, sau ra đá vàng” với Thúc Kì Tâm? (theo tôi, đây là mối tình chân thành, cảm động). Làm gì có cái cả cười mãn nguyện của Từ Hải “Cười rằng tri kỉ trước sau mấy người”?! Chí lý thay danh ngôn: “Cái đẹp nào cũng lấp lánh hào quang trí tuệ!”. Thúc Sinh mê mẩn Kiều, Từ Hải sẵn sàng chết vì Kiều là bởi ở nàng Kiều luôn “lấp lánh hào quang của trí tuệ”. Hai người đàn ông này đã vượt lên định kiến xã hội, dám làm tất cả không phải vì thân xác Kiều, mà vì trí tuệ của nàng. Một trí tuệ như thế cần phải được tôn vinh, ngưỡng mộ. Do đó, tạm giới hạn, chỉ bàn về cáitỉnh rượu” trong những lần nàng Kiều say thật; còn cái say giả như say thật sẽ bàn ở bài viết về một câu thơ khác, chẳng hạn, câu: “Biết bao bướm lả ong lơi/Cuộc say đầy tháng, trận cười suốt đêm”.
Kiều từng uống rượu rất nhiều lần, nhưng mỗi lần lại phải thủ một vai diễn khác nhau, do đó có những trạng thái tâm lí, tình cảm khác nhau. Chỉ nội việc uống rượu để chài, đưa khách làng chơi vào mê cung đốt tiền tìm thú vui xác thịt, e cũng phải tới ngàn lần?! Tú Bà dạy Kiều đủ ngón nghề, hẳn phải có cái chiêu chuốc rượu cho những gã đàn ông rửng mỡ. Như vậy, trong việc uống rượu, Kiều vừa chủ động, vừa bị động. Chủ động vì đó là nghề, không làm không thể yên với mụ Tú. Bị động vì nếu gặp phải những gã đàn ông cao thủ, bợm rượu, cố tình dùng thủ đoạn hoặc vũ lực để chuốc rượu thì chính Kiều có thể sẽ là người bị rượu hạ gục trước. Tạm gác sang một bên chuyện chủ động, bị động, chỉ biết rằng sau một cơn “hôn mê”, Kiều vừa “tỉnh rượu”.
Vậy, khi “tỉnh rượu”, Kiều đã nhìn thấy gì? Cảm thấy gì? Nhớ gì?
- Thấy: một thân thể loã lồ, nhàu nát, bẩn thỉu… - Cảm thấy bẽ bàng, tủi nhục…
- Nhớ: Xưa sao phong gấm rủ là?/Giờ sao tan tác như hoa giữa đường?
Tất cả những hành động “nhìn”, “cảm”, “nhớ” của Kiều đều hướng nội, tức là trong tâm hồn Kiều diễn ra một cuộc đối thoại nội tâm tỉnh táo, đau đớn:
1. Tại sao ta phải uống rượu? - Vì buồn, muốn quên, vì phải chuốc khách làng chơi, vì bị khách làng chơi chuốc lại…
2. Trước kia ta là ai? - Là một tiểu thư khuê các, nhan sắc bậc nhất thiên hạ, tài năng cũng vào loại nhất nhì thiên hạ! Rồi cuộc “gặp gỡ” bóng ma Đạm Tiên, cuộc hạnh ngộ chàng Kim, gia biến, thất tiết với Mã, sập bẫy Sở, rơi vào tay Tú Bà…
3. Hiện tại, ta là ai? - một con đĩ!
Khi đã ý thức được một cách sâu sắc “ta là ai?”, Kiều thảng thốt: “Giật mình, mình lại thương mình, xót xa”. (Về cái “giật mình” này, xin đọc thêm các bài viết của Đường Văn, Đỗ Trung Côn, Lê Thị Hương trên vunho.com, 11 - 2011)
Nhưng vấn đề tại sao lại là “Khi…”? Có lẽ, trong hàng ngàn lần tiếp khách thì cả hàng ngàn lần, Kiều đều bị say rượu? Sau mỗi cơn say ấy lại có một lần “tỉnh rượu”. Như vậy, mỗi lần “tỉnh rượu” sẽ trở thành một cơ hội hiếm hoi giúp Kiểu trở lại trạng thái tỉnh táo tự nhận thức bản thân: “Ta là ai?”. Nói cách khác, từ khi rơi vào lầu xanh Tú Bà, Bạc Bà; cuộc sống của Kiều chỉ còn là chuỗi thời gian dằng dặc chìm trong cõi mê nhục dục, sặc sụa hơi men. Những “Khi…” lặp đi lặp lại như những đốm sáng le lói của nhân tính, hi vọng… Mặc dù ta biết, Kiều thật phi thường, vì trong hoàn cảnh nhớp nhúa như vậy, vẫn không bị “súc vật hoá”, vẫn có buổi đoàn viênhậu đoàn viên nói năng thưa gửi theo đúng “nếp nhà phỉ phong”. Nhưng cũng chính Kiều cay đắng thừa nhận: “Mấy trăng cũng khuyết, mấy hoa cũng tàn”! Nghĩa là, sau mỗi lần “Khi…”, Kiều “giật mình” hiểu một cách tận cùng đau đớn rằng, thực ra nàng chỉ còn hiện hữu trên cõi đời này như cái thây ma hôi thối! Nhưng trong cái thây ma hôi thối ấy lại có một tâm hồn chưa bao giờ chịu ngừng hi vọng, một trái tim chưa bao giờ thôi thổn thức! Đó chính là một bi kịch nhỏ trong tấn bi kịch lớn của đời Kiều. Bi kịch nhỏ ấy cứ tái diễn sau mỗi lần “tỉnh rượu”…
Chỉ qua một chi tiết tự nhận thức bản thân sau mỗi lần “tỉnh rượu”, ta cũng thấy được tầm khái quát của Nguyễn Du. Để trả lời câu hỏi “Ta là ai?”; ngoài sự tự vấn khắc khoải của Kiều, còn có nhiều yếu tố hoang đường, ngẫu nhiên góp phần “tìm kiếm” câu trả lời. Giả sử tước bỏ tất cả những yếu tố ấy, thì câu chuyện 15 lưu lạc chắc chắn sẽ nhạt nhẽo và phi lí đến mức khó có thể chấp nhận. Yếu tố hoang đường cơ hồ như chất keo gắn bó các biến cố, sự kiện, nhân vật thành một chỉnh thể nghệ thuật. Khi đã nằm trong một chỉnh thể nghệ thuật, thì, đến lượt mình, các yếu tố hoang đường lại mang trong nó những tư tưởng, hoặc ít ra là một quan niệm, một cách lí giải của tác giả về cuộc đời. Nếu tiếp tục tước bỏ những yếu tố ngẫu nhiên trong cái màn sương khói hoang đường, mờ ảo kia, sẽ thấy thấp thoáng những luận điểm triết học mang tính vĩnh cửu của xã hội loài người, trước hết là luận điểm về sự tồn tại của cái bản ngã, bản thể. - Ta là ai? / -  Con người là gì? / - Sống để làm gì? / - Tình yêu là gì? / - Hạnh phúc là gì?...  Đó là những câu hỏi lớn, mãi treo trước mắt loài người và có lẽ không bao giờ có lời đáp cuối cùng! Chính điều đó lại thành mảnh đất dụng võ cho văn chương nghệ thuật. Bởi, xét cho cùng, sáng tạo nghệ thuật là quá trình đào sâu vào cái tôi - cá nhân - cá thể, cái tôi- cô đơn tuyệt đối của người nghệ sĩ để kiếm tìm lời giải đáp những câu hỏi trên bằng hình tượng nghệ thuật. Do đó, khi ý nghĩa triết học của hình tượng càng cao thì sức ám ảnh của nó càng tăng chiều  sâu trí tuệ của sự tự nhận thức cái bản thể.
         Xin bàn thêm về câu hỏi liên quan đến khoảnh khắc “tỉnh rượu” của Kiều: - Ta là ai? Xưa, Nguyễn Gia Thiều từng kêu lên: Cái quay búng sẵn trên trời./Mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm... (Cung oán ngâm khúc). Nay, Chế Lan Viên lại băn khoăn, khắc khoải: Ta là ai? Như ngọn gió siêu hình,/Câu hỏi hư vô thổi nghìn nến tắt. (Hai câu hỏi – Ánh sáng và phù sa(1960). Còn Nguyễn Du thì: Chém cha cái số hoa đào,/Gỡ ra rồi lại buộc vào như chơi! Ta là cái quay, là ngọn gió, là cánh hoa đào... đã được sinh ra một cách thật tình cờ ngẫu nhiên, có mặt trên đời như một trò chơi để rồi cuối cùng mất hút trong hư vô! Cái ta ấy có phải là vô ngã trong cõi hồng trần vô thường của nhà Phật hay không? Kể từ buổi “gặp gỡ” Đạm Tiên, bóng ma ấy như đã thành cái bóng của Kiều, lại như chính Kiều phân thân để tự lí giải về những tai hoạ của đời mình. Nó vừa là vô thức, vừa là ý thức của bản ngã. Do đó nó vừa vô hình vừa hữu hình. Bóng ma Đạm Tiên xuất hiện trong những hoàn cảnh, diện mạo khác nhau, nhưng chỉ có một mục đích: nhắc nhở Kiều sự an bài của số mệnh - Thiên mệnh. Nó giúp Kiều cảm nhận về “cái ta”mong manh, mơ hồ. Ngay trong chiều chơi xuân,  bóng ma Đạm Tiên đã xuất hiện. Thoạt đầu  hữu hình, sau đó: vô hình; Cuối cùng là sự gặp gỡ giữa hữu hình và vô hình: Đè chừng ngọn gió lần theo/Dấu giày từng bước in rêu rành rành. Nắm đất là sự vật có thể nhìn thấy, sờ thấy... nhưng tự nó đã là cát bụi, hư vô! Một kiếp người sẽ còn lại gì, ngoài những ngọn gió vô hình vu vơ?! Còn dấu giày trên rêu kia, là của ai? Của ma hay của Kiều? Dù dấu giày có thể thuộc hai cõi dương, âm khác nhau, nhưng kết cục lại hết sức giống nhau: Giày nào (cao sang hay thấp hèn, tài cán hay ngu dốt, đẹp như tiên sa hay xấu như ma hủi…), cuối cùng cũng chỉ còn là nắm đất vô tri, vô hồn, lăn lóc trên gò bãi hiu quạnh mà thôi!  Ngay trong tiết Thanh minh, Kiều đã rùng mình cảm nhận sâu sắc: ta chỉ là cát bụi (Hạt bụi nào hoá kiếp thân tôi/Để một mai tôi về làm cát bụi - Trịnh Công Sơn)! Ngày mai của tất cả mọi kiếp người đều kết thúc giống nhau. Người sống đôi khi lại phải đứng trước những nấm mồ để tìm kiếm sự đồng cảm với cái ta, với hồn ma đáng thương: Hữu tình ta lại gặp ta,/Chớ nề u hiển mới là chị em!
           Lại gặp những cái ta khác: Một mảnh tình riêng ta với ta (Bà huyện Thanh Quan) Bác đến chơi đây ta với ta (Nguyễn Khuyến); Ta là một, là riêng, là thứ nhất (Xuân Diệu)…cô đơn quá! cao ngạo quá! Nhưng dù sao vẫn là nỗi cô đơn dương thế. Còn cái ta lại gặp ta đây mới thật hãi hùng! Một cuộc gặp gỡ tri âm, tri kỉ  của hai tâm hồn cô đơn giữa hai cõi âm dương cách biệt nghìn trùng... Sống cô đơn đã đành! Chết rồi vẫn cô đơn! Cảm nhận về cái ta cô đơn, lạc loài của Kiều quả đáng sợ! Ngay sau buổi gặp gỡ Kim Trọng với những rung động đầu đời đắm say, cuồng nhiệt, Kiều ngồi một mình đối diện với bản ngã để lí giải về ý nghĩa của cuộc sống và tình yêu: Người mà đến thế thì thôi!/Đời phồn hoa cũng là đời bỏ đi./Người đâu gặp gỡ làm chi/Trăm năm biết có duyên gì hay không?
        - Người phồn hoa như Đạm Tiên cũng không thoát khỏi kiếp liễu bồ đớn đau, tủi nhục thì thử hỏi sinh ra làm người như ta là hoạ hay phúc? - Người tình cờ gặp như chàng Kim liệu có làm cho cuộc đời đáng sống? Hay cũng chỉ là chuyện phù phiếm gió thổi, mây bay? Đang bối rối với những câu hỏi trên thì bóng ma Đạm Tiên xuất hiện và lạnh lùng phán quyết: …xem trong sổ đoạn trường có tên.…Cùng người một hội một thuyền đâu xa! Nữ Thiên sứ xem trộm sách trời và mách bảo Kiều: Tất cả đã được sắp đặt từ lâu rồi! chớ cưỡng lại, vô ích!  Có lẽ sau khi nghe phán quyết trên, Kiều ở vào trạng thái mất phương hướng, ngơ ngác như một sinh linh bé bỏng, tội nghiệp bị bỏ rơi trên cõi nhân gian đầy gió bụi: Đường xa nghĩ nỗi sau này mà kinh!... Quả nhiên, thiên mệnh an bài đã vận ngay vào Kiều: bị thất tiết với gã Mã Giám Sinh bợm bãi, khiến nàng phải bật tiếng kêu ai oán, xé lòng; lúc bị mụ Tú Bà hạ nhục, Kiều đã ngước lên trời xanh thăm thẳm, kêu cứu tuyệt vọng: Thân này đã bỏ những ngày ra đi /Thôi thì thôi, có tiếc gì!. Khoảnh khắc rùng mình cảm nhận sự vô nghĩa của kiếp người hóa nỗi ám ảnh, biến Kiều từ một thiếu nữ phơi phới thanh xuân, rạo rực yêu đương thành kẻ nguội tắt tất cả lòng ham sống, ham yêu và muốn lập tức kết thúc đời. Nhưng, nghiệt ngã thay, thiên mệnh như  sợi dây vô hình càng ngày càng lạnh lùng thít chặt vào vòng nhân quả: Đã toan trốn nợ đoạn tràng được sao?...Người dù đã quyết, trời nào đã cho?...Sông Tiền Đường sẽ hẹn hò về sau!...Mỗi lần “tỉnh rượu” là một lần Kiều thảng thốt “giật mình” nhớ lại tất cả! Ngàn lần “tỉnh rượu” là ngàn lần nàng buộc phải “ôn lại” bài học thuộc lòng kia! Nhàm chán, đơn điệu, hãi hùng quá!... Hành trình tha hoá “cái ta”, từ người con gái khuê các đến một gái làng chơi thậm vô lí, nhưng cứ diễn ra như một sự thật bất khả kháng! Dù là người con gái cành vàng lá ngọc hay con đĩ bẩn thỉu, cuối cùng cũng kết cục giống nhau, không thể tránh: “Sè sè nắm đất bên đường… Biết vô lí, vô nghĩa, nhưng oái oăm thay, Kiều vẫn phải nuốt tủi, ngậm nhục mà sống, vì chưa được phép chết (Đạm Tiên đã “truyền lệnh Trời” như vậy!). Kiều đã đi đến tận cùng nối đau, nỗi nhục sau mỗi lần “tỉnh rượu”. Lần này không là lần đầu, cũng chưa phải lần cuối cùng, kể từ khi nàng phủ phục trước Tú Bà, run rẩy trong nước mắt: “Thân lươn bao quản lấm đầu/Chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa”!
4.4.
4.4.2.

         …Đó là tâm trạng Thúy Kiều ở lầu xanh (Tú Bà, Bạc Bà), dưới ngòi bút phân tích tâm lý tàn nhẫn (Phan Ngọc) của thiên tài Nguyễn Du. Cái hay và sâu sắc là ở chỗ Tố Như tả cử chỉ giật mình của nhân vật trữ tình sau khi vừa tỉnh rượu từ bên trong - thế giới tinh thần của nó. Lời kể – tả trùng khít, chồng lên lời độc thoại nội tâm, tự mình phơi mở, phân tích những uẩn khúc sâu kín nơi đáy lòng nhân vật.
         Cử chỉ giật mình, trong trường hợp cụ thể này, diễn ra dường như bộc phát khi tỉnh rượu và mang tính lặp lại (mỗi khi) vừa chủ động lại vừa bị động. Bị động ở chỗ Kiều không tự làm chủ được cuộc sống hiện tại và tương lai của mình. Cuộc sống nhục nhã, thê thảm, khốn nạn ở chốn lầu xanh cũng thật nặng nhọc, vất vả về thể chất, đặc biệt là về tinh thần: Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Tràng Khanh, hết ngày dài lại đêm thâu phải làm vợ khắp người ta…nên những lúc vắng khách chơi, khi tỉnh rượu, lúc tàn canh (đêm về sáng, kết thúc những cuộc truy hoan, khi lũ khách chơi đã no nhục dục, đã say bét nhè). Hầu hết thời gian Kiều buộc phải dùng rượu, uống rượu, chuốc rượu để chiều khách ăn chơi thác loạn, như một cái máy, một con thịt bán mình, Kiều hầu như quên hẳn bản thân. Chỉ đến những khoảnh khắc tạm được ngưng công việc, mệt mỏi, ê chề, cô đơn một mình với ngọn đèn khuya, nàng mới chợt nghĩ đến thân phận riêng mình. Và cử chỉ giật mình nửa ý thức nửa vô thức bỗng xuất hiện. Sự chủ động bắt đầu từ đây. Ở nơi hang hùm nọc rắn, chốn ăn chơi trụy lạc này, hỏi có ai thương xót đến nàng như một con người, ngoài chính nàng thương thân?! Xót xa, tủi cực vô hạn. Nhịp thơ thoắt biến đổi lạ lùng: câu trên 3 - 3; câu dưới 2 - 4 - 2 như muốn uốn theo dòng tâm tư nổi chìm, vặn lên vặn xuống, giằng xé, trào cuộn từng cơn, từng trận mà trong đó cái giật mình đóng vai trò cử chỉ, dấu hiệu khởi đầu. Cần phân biệt từ mình đầu tiên (dùng như danh từ) với đại từ mình điệp lại 2 lần ở vế sau. Nguyễn Du đã học ca dao trữ tình truyền thống để nói lên từng cơn nức nở cố nén nhưng chốc chốc lại nấc lên, dồn lên không cưỡng nổi với những giọt nước mắt giàn giuạ, ròng ròng trên khuôn mặt hoa khôi tê tái của Thúy Kiều.
         Đây là lần duy nhất trong Truyện Kiều, Nguyễn Du nói đến rượu mà lại không tả cảnh uống rượu, say rượu, mà ngược lại. Rượu chỉ còn để lại dấu vết trên khuôn mặt, đôi mắt, dáng vẻ mệt mỏi cực độ, bộc lộ cõi lòng tan nát của người con gái đáng thương buộc phải hằng ngày, hằng đêm uống rượu, say sưa cùng khách, để dụ khách hoặc bị khách dụ trong trò chơi xác thịt bẩn thỉu, ê chề. Lúc tỉnh, ứa nước mắt xót xa cho thân phận khốn nạn của mình nhưng rồi chiều mai, đêm mai… lại phải uống, phải say, rồi lại tỉnh, lại xót xa thương mình, lại giật mình… cứ thế, cứ thế… có lẽ cho đến tàn đời?!
         Theo tôi, đây là một trong những câu thơ mượn hơi rượu nhạt để đặc tả tâm trạng – tâm lý nhân vật cô đơn nhất, sâu sắc nhất, cảm động nhất, và hiện đại bậc nhất trong Truyện Kiều.

ĐV. (2012)/ Còn Tiếp, phần 4/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét