Hoàng Xuân Họa biên soạn
Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc ấn hành 2004
PHẦN 9
CÁCH ĐỐI ÂM TRONG THƠ, PHÚ
Phép đối, nói chung là
bằng, trắc đối nhau sóng đôi cho tương xứng. Ðối âm và đối tiếng, đối âm là âm
bằng đối với âm trắc hay ngược lại. Ví dụ: “trời” (b) đối với “đất” (tr); “béo”
(tr) đối với “gầy” (b); “ăn” (b) đối với “nói” (tr); đi (b) đối với đứng (tr);
đất thấp (tr) đối với “trời cao” (b)... Ngoài ra còn đem danh từ đối với danh
từ, tính từ đối với tính từ để hai tiếng ngang nhau. “Sông” (danh từ) đối với
“núi” (danh từ); “to” (tính từ) đối với “nhỏ” (tính từ); “rầm rầm” (trạng từ),
đối với “phăng phăng” (trạng từ). Lấy chữ số đối chữ số, ví dụ:
- Một chiếc cùm lim chân có đế
Ðối là:
Ba vòng xích sắt bước
thì vương.
- Chín chục thiều quang
trời ngó lại
Bốn nghìn lịch sử nước
trôi xuôi
(Tản Ðà)
Lấy thành ngữ, tục ngữ ...
đối nhau: Ðầu gối quá tai (đối là) - Miệng dai chão rách; Lắm
kẻ yêu hơn nhiều người ghét (đối là) - Một câu nhịn là chín câu lành,
Nhai kỹ no lâu (đối là) - Cày sâu tốt lúa...
PHẦN 10
CÂU ĐỐI CÂU
Câu đối câu phải tương
xứng, âm tiết mỗi câu đều phải ngang nhau.
Ví dụ: câu đầu 4 chữ, câu
sau cũng phải 4 chữ:
- Duyên kia đã vậy
(đối là) - thân này nương đâu.
(Lê Ngọc Hân)
-“Núi thăm thẳm”
(đối là) - “Rừng xanh xanh”.
Trong phép đối có hai cách:
Tiểu đối và bình đối.
A. - Tiểu đối: Là những tiếng trong một câu đối với nhau:
- Khi gío mát (đối là) - lúc trăng thanh.
-
Bàn vây điểm nước (đối là) - đường
tơ họa vần.
Ba từ trước đối với ba từ
sau, bốn từ trước đối với bốn từ sau như trên.
B. Bình đối: Tức câu trên đối với câu dưới:
- Ðã mang tiếng đứng
trong trời đất.
Ðối là:
- Phải có danh gì với
núi sông.
PHẦN 11
PHẦN 11
THỂ CÂU ĐỐI
Câu đối thơ, câu đối phú về
nguyên tắc làm như thơ như phú, cái khác một điểm là câu đối chỉ có hai câu
giải quyết một đề tài, cho nên luật bằng, trắc giống nhau:
- Lác đác mưa sa làng Lộ
Vũ
- Ì ầm sấm động đất
Phong Lôi.
Những tiếng trắc ở vế trên
đều đối với tiếng bằng ở vế ngược lại, (bằng trên trắc dưới) nhưng cũng không
bắt buộc như thế, câu đối thơ làm giống hai câu Thực và Luận ở thơ Ðường luật
và cũng được cái lệ ngoại trừ “nhất, tam, ngũ bất luận”.
Tuy nhiên, trong phép đối ở các sách xưa dạy, ta còn thấy 10 cách: “Chính
đối, đích danh đối, đồng loại đối, dị loại đối, liên châu đối, song thanh đối,
điệp vận đối, song nghĩa đối, liên cẩm đối, hồi văn đối”. Ðó là những quy
cách để đối cho chỉnh, cho giòn... còn làm được câu đối hay phải hiểu biết việc
đời, hiểu biết xã hội và con người sâu sắc nữa.
Câu đối phú chia làm nhiều
đoạn, tiếng cuối cùng của mỗi đoạn ở vế trên mà bằng thì tiếng cuối mỗi đoạn ở
vế dưới phải là trắc, hoặc ngược lại:
- Mở khép càn khôn
(b), có ra tay mới biết (tr)
- Ra vào trướng tướng
(tr), thử liếc mắt mà coi (b)...
(Nguyễn Hữu
Chỉnh, thời Tây Sơn)
Câu đối mình làm ra, vế
trên, tiếng cuối cùng bao giờ cũng phải vần trắc. Cho nên câu đối bao giờ cũng
treo vế trắc bên tay phải (tay phải người đứng xem câu đối). Câu đối ra cho
người khác đối lại, tiếng cuối cùng trắc hay bằng đều được.
* Một số câu thách đối và đối:
+ Ở Cổ Loa, nhân dịp trung
tu lại đền thờ An Dương Vương, phụ lão trong làng tổ chức giải trí bằng thi văn
chương sách hoạ. Một cụ đồ trong làng thách một vế đối:
- Thuý Kiều (b) đi qua
cầu, (b) nhác thấy chàng Kim, (b) lòng đã trọng (tr).
Vế ra rất tài tình, chữ
KIỀU có nghĩa là CẦU mà KIM TRỌNG lại là tên liền. Câu đối nêu lên được mối
tình đoan trang tình tứ chớm nở trong lòng Kiều. Mãi không ai đối được, sau có
một du khách đến tham quan đối rằng:
- Trọng Thuỷ(tr) nhòm
vào nước, (tr) thoáng thấy nàng Mỵ (tr) mắt rơi châu(b).
(Theo Vũ Ngọc Khánh).
(Theo Vũ Ngọc Khánh).
Câu đối lại cũng tuyệt hay!
THỦY là NƯỚC, MỴ CHÂU lại là tên liền. Cả câu sau dựng lên được tấn thảm kịch
trong lòng Trọng Thuỷ sau khi xong nhiệm vụ gián điệp trở lại với lòng đau
thương hối hận của mình.
Câu đối bằng tiếng Pháp:
Ngày xưa nhiều người biết
chữ Pháp, nói rằng tiếng Pháp không dùng để ra câu đối được. Vậy mà vẫn có đôi
câu đối khá hóm hỉnh, tinh nghịch toàn chữ Pháp. Khoảng năm 1934, viên toàn
quyền Pie Pátkiê chết cháy trong một tai nạn máy bay khi y đang bay về nước. Có
người đã làm đôi câu đối bằng tiếng Pháp như sau:
- "Tous les Annamites sont si joyeux! Ce bel incendie nous venge bien!
- Chaque
colonial est vraiment triste! Mille dangers semblables vous attendent."
Phiên âm:
-"Tú lê da na mít xông xi gioay ơ; xơ ben lanh xăng đi, nu văng giơ
biêng:
-Sác cô lô ni an e vre măng t'rít, min đăng giê xăm bláp vu dát tăng đờ!
Vũ
Ngọc Khánh chuyển ngữ như sau:
- Mọi người Việt Nam
đều rất hân hoan, trận lửa đẹp kia trả thù cho chúng tớ;
- Mỗi chú thực dân hẳn
là buồn bã, nghìn tai nạn thế vẫn đang đợi lũ mày.
(Theo Vũ Ngọc Khánh và Hoàng Ðức Thi).
(Theo Vũ Ngọc Khánh và Hoàng Ðức Thi).
Vế ra:
-Vũ vô kiềm toả năng lưu
khách
Vế đối lại:
- Sắc bất ba đào dị nịch
nhân.
(Mưa không then khoá mà lưu
được khách lại.
Sắc đẹp không sóng gió làm
đắm lòng người).
Trong dân gian lưu truyền
một vế đối, tương truyền rằng của bà Ðoàn Thị Ðiểm lỡm Trạng Quỳnh:
-Da trắng vỗ bì bạch
Nếu đúng vế đối đó của bà
thi sĩ họ Ðoàn thì phải mấy trăm năm rồi chưa ai đối được thật hay, thật chỉnh?
Tôi không còn nhớ vào thập kỷ 70 thế kỷ 20, trên mục Câu lạc bộ chiến sĩ báo Quân Ðội Nhân Dân có kể chuyện về một
chiến sĩ đang đánh giặc trong rừng già Trường Sơn. Một hôm ngồi trên võng giữa
mưa phùn, buồn, anh bộ đội nhớ tới vế đối của nữ sĩ Ðoàn Thị Ðiểm đã đối rằng:
- Rừng sâu mưa lâm thâm.
Rừng sâu mưa lâm thâm đối với da trắng vỗ bì bạch là hợp. Tôi dám
chủ quan tin rằng vế đối này là được nhất; Bì bạch cũng là da trắng,
Lâm thâm cũng là rừng sâu, vì lâm là rừng
mà thâm là sâu. Tuy chữ và nghĩa còn khiên
cưỡng nhưng chưa có vế nào đối chỉnh hơn nên ta tạm bằng lòng cùng vế đối của
người lính kể trên.
Có hai vế đối truyền miệng
đang bỏ ngỏ, xin mời các bạn hãy thử sức mình:
- Song song là hai cửa sổ, hai thằng ngồi
trong cửa sổ
(KD)
- Cái cứt gì cũng phân,
mà phân như cứt...?
(Thanh Tịnh)
PHẦN 12
CHƠI CHỮ TRONG DÂN GIAN
-Bà già đi chợ cầu Ðông
Muốn xem quẻ bói lấy chồng
lợi chăng?
Thày bói, gieo quẻ nói
rằng:
Lợi thì có lợi mà răng chẳng còn.
(Ca dao)
- Môi chẳng ra môi còn
bẻm mép.
- Con ruồi đậu mâm xôi
đậu.
- Ngựa về đường bể chạy
long tong.
- Con cóc leo cây vọng
cách, nó rơi xuống cọc, nó cạch đến già.
- Ði trên đất thịt đường
trơn như mỡ.
- Dao cắt lòng, lòng đau
như dao cắt.
- Hòn đất mà biết nói
năng
Thì thày địa lý hàm răng
chẳng còn.
-Trăng bao nhiêu tuổi
trăng già
Núi bao nhiêu tuổi gọi
là núi non?
Chơi chữ đồng âm trong
thơ hiện đại:
-Tạm biệt đời ta yêu quý
nhất
Còn mấy vần thơ. Một nắm tro
Thơ gửi bạn đường. Tro
bón đất
Sống là cho.
chết cũng la tro
(Tố Hữu)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét