Hoàng Xuân Họa biên soạn
Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc ấn hành 2004
PHẦN 13
CHƠI CHỮ TRONG CÂU ĐỐI, TRONG THƠ
*Trong câu đối:
Ðôi câu đối chửi tên quan
tham nhũng Từ Ðạm:
- Kiếp trước mơ màng con
đĩ Ðạm
Ðời sau gặp gỡ bố cu
Từ (Ðạm Tiên - Từ Hải).
- Phên đan mắt cáo mèo
chui lọt
Nghé lội ao sen ngó nổi lên.
(KD)
- Mặc áo giáp, dải cài chữ đinh; mậu, kỷ,
canh khoe mình rằng quý
- Làm đĩ càn, tai đeo hạt khảm; tốn, ly, đoài
khéo nói rằng khôn.
(Câu đối của Hồ Xuân
Hương).
* Chơi chữ trong thơ:
Ðền ngọc sơn (đọc xuôi)
Linh uy nổi tiếng thật là
đây
Nước chắn, hoa rào một khoá
mây.
Xanh biếc, nước soi hồ lộng
bóng,
Tím bầm rêu mọc đá tròn
xoay...
Canh tàn lúc đánh chuông âm
tiếng
Khách vắng khi đưa, xạ ngát
bay...
Thành thị tiếng vang dồn
thích thú,
Rành rành nọ bút với nghiên
này.
Ðền ngọc sơn (đọc ngược)
Này nghiên với bút nọ
rành rành
Thú thích dồn vang tiếng
thị thành.
Bay ngát xạ đưa khi vắng
khách,
Tiếng âm chuông đánh lúc
tàn canh.
Xoay tròn đá mọc rêu bầm
tím,
Bóng lộng hồ soi nước
biếc xanh.
Mây khoá một rào hoa
chắn nước
Ðây là thật tiếng nổi uy
linh.
(Tình Sĩ Tử)
Mừng Cháu đích tôn tròn một tuổi
Ðích đích tôn tôn trọn
tuổi rồi
Ông ông cháu cháu nụ
cười tươi
Già già trẻ trẻ cùng
sung sướng
Tháng tháng năm năm thật
tuyệt vời
Mẹ mẹ cha cha cùng phấn khởi
Hàng hàng xóm xóm cũng
sang chơi
Mong mong mỏi mỏi mau
khôn lớn
Óc óc tim tim dựng cuộc
đời.
(Lê Bầu)
Bài “Ðền ngọc sơn” tác giả
xoay tiếng “này” lên đứng đầu và cứ thế cuốn chiếu đọc ngược lại vẫn đủ ý tứ.
Bài sau của Lê Bầu nếu bỏ những từ láy đi thì chỉ là bài thơ 5 chữ. Mới thấy
chơi chữ, “chơi” thơ cũng lắm công phu.
PHẦN 14
PHẦN 14
CÁCH NÓI QUÁ SỰ THỰC
* Ngoa dụ:
Một thủ pháp nghệ thuật dựa
trên cơ sở phóng đại, cường điệu khi miêu tả:
- Lỗ mũi thì tám gánh
lông
Chồng yêu, chồng bảo tơ
hồng trời cho...
- Con rận bằng con ba ba
Ðêm nằm nó ngáy cả nhà
thất kinh...
(Ca dao)
* Nghịch lí:
Trong sáng tác văn học, nghịch
lí là những điều miêu tả trái với lẽ thường, một biện pháp gây ấn tượng bất
ngờ, phi thực:
- Con chuột kéo cày lồi
lồi
Con trâu bốc gạo vào
ngồi trong cong...
- Hùm nằm cho lợn liếm
lông
Một chục quả hồng nuốt
lão tám mươi...
-Thóc giống cắn chuột trong
bồ
Một trăm lá mạ đuổi vồ
con trâu...
(Ca dao)
* ẩn dụ: Nói cái này lại ám chỉ cái kia:
- Hôm qua em mất váy
thâm
Hôm nay lại thấy anh cầm
ô đen!...
(Ca dao)
-Anh đến vườn hoa thì hoa
đã nở
Anh đến bến đò thì đò đã
qua sông.
(Dân ca Nghệ An)
- Này này chị bảo cho mà
biết
Chốn ấy hang hùm chớ mó
tay.
- Rúc rích thây cha con
chuột nhắt
Vo ve mặc mẹ cái ong
bầu
(Hồ Xuân Hương)
-Hang hùm ví bẵng không
ai mó
Sao có hùm con bỗng chốc
tay.
(Chiêu Hổ)
Ði CâuThừa nhàn lắm lúc tớ đi
câu,Biết cả các loài ở cạn
sâu:Lũ bống xơi ngầm im
phăng phắc, Ðàn mương ăn bẩn đến
nhâu nhâu.No mồm chú ếch ngồi
phùng má,Ðói bụng cu lươn rúc lấm
đầu.Mồi mắc bởi chưng ăn xộp
quá Không tham chưa dễ hại
gì đâu.
(K.D.)
PHẦN 15
(K.D.)
PHẦN 15
KHOÁN THỦ
Tất cả các tiếng ở đầu mỗi câu thơ khi đọc xuôi xuống đều
mang một ý nghĩa mà nhà thơ đã định sẵn như một dòng tên người, một câu khẩu hiệu,
một câu châm ngôn hoặc một câu nói nổi tiếng.
Thập kỷ 60 thế kỷ 20, từ bờ nam sông Bến Hải trở vào Nam Bộ
tạm thời bị sự cai trị bằng lưỡi lê của lính Mỹ và chế độ hà khắc Ngô Ðình
Diệm. Nhân dân miền Nam vẫn hướng về miền Bắc Xã hội chủ nghĩa, hướng về cụ Hồ
bằng cách bảo nhau cùng treo bức tranh “Ông già câu cá” của một nghệ sĩ dân
gian có đề bài thơ tứ tuyệt như sau:
- Cụ già thong thả buông cần trúc
Hồ rộng thênh thang mặt nước bằng
Muôn vạn đài sen đua lóng lánh
Tuổi già vui thú với non sông.
Một tên mật vụ có chút hiểu
biết về thơ phú phát hiện ra, y báo cấp trên của y ra lệnh tịch thu và cấm nhân
dân treo bức tranh và bài thơ trên. Bức tranh bị cấm nhưng 4 câu thơ thì đã đi
vào lòng người.
Còn nhiều bài thơ chơi chữ
theo lối khoán thủ. Xin giới thiệu thêm bài thể Ðường luật:
Gửi Bạn
Nhất sinh tôi bác biết nhau rồi,
Ðịnh đoạt hơn thua phó mặc trời.
Chúng mải công danh ky cóp chạy,
Ta nhìn mây nước nhẹ nhàng trôi.
Theo quan, ngán bấy câu chè lá!
Về xã, buồn thay cảnh thịt xôi.
Lê gậy theo trăng vào quán trọ,
Ninh trà, nạp thuốc, chuốc nhau chơi!
(Quả Ngôn, một nhà nho trước 1945).
Bỏ âm h ở từ Ninh đi, đó là chữ Nin: “Nhất định chúng ta theo về Lê Nin”. (Tiếng Trung Quốc phiên
âm tên lãnh tụ Lê Nin là Lệ Ninh).
PHẦN 16
PHẦN 16
MỘT HÌNH THỨC THƠ ĐỘC ĐÁO,
DẠNG TẠO MÔ HÌNH
Kiểu trình bày bài thơ
“hình phễu” của nữ sĩ Ngân Giang thật lạ. Bà sử dụng vần a: “gà, pha, hà,
nga, hoà, ta” xuyên suốt bài thơ một cách tài tình, các dòng thơ dưới dần
ngắn lại xếp thành “lục - nhất lệch”:
Ðường về
tre xanh rợp lối
Suối khe văng vẳng canh gà
Tình thương dài sử sách
Ngọc đá cũng phôi pha
Niềm tin bất
diệt
Gắn
bó sơn hà
Như Ðường nga
Tâm huyết
Chan hòa
Bạn
Ta
Ta
Lệnh Hồ Sở, tể tướng thời
nhà Ðường, ông là bạn thân của Bạch Cư Dị. Lệnh Hồ Sở trình bày một lối thơ
“hình tháp, cũng là một kiểu chơi chữ “nhất - thất lệch. Mới biết “chơi”
thơ cũng lắm công phu (dẫn theo Phan Văn Các):
Non
Chất ngất
Chon von
Xanh
biển biếc
Bạc mây vờn
Thương lão sâu ẩn
Tạ
công xa vườn
Ðá
xưa khe róc rách
Thung vắng, chim ríu ran
Rừng rậm chạy dài ải lũng
Vượn
kêu thấu suốt Kinh man
Người tục chết già trong gấu váy
Hươu
nai tận hưởng cỏ hoa thơm
(Phan Văn Các dịch)
Chịu ảnh hưởng từ những
phương pháp ngoa dụ, nghịch lí, ẩn dụ, chơi chữ trong ca dao dân gian, nhiều
nhà thơ nửa cuối thế kỷ 20 đã sáng tác được những câu thơ khá hay cho nền thơ
Việt Nam:
-Trời thì xanh như rút
ruột mà xanh
Cây thì biếc như vặn
mình mà biếc.
(Thi Hoàng)
- Ðừng buông giọt mắt
xuống sông
Anh về, dẫu chỉ đò không
cũng chìm...
(Ðồng Ðức Bốn)
- Muốn trèo lên nắng mà
đi
Muốn đu lên gió mà về
với nhau...
(Ðỗ Trọng Khơi)
- Gió không phải roi mà
vách núi phải mòn
Em không phải chiều mà
nhuộm anh đến tím...
(Hữu Thỉnh)
- Ðường số một chạy dài
theo biển
Biển mệt nhoài nằm thở ở
Nha trang
(Hữu Thỉnh)
- Mẹ mượn Ðèo Ngang buộc
một đầu guốc võng
Cột gỗ nhà ta, một đầu
võng kẽo cà...
(Nguyễn Hữu Quý)
- Giọt chuông Thiên Mụ
rơi thầm
Ðưa đây nỗi nhớ anh cầm,
Huế ơi...
(Trương Nam
Hương).
- Sông Hương hoá rượu
cho anh uống
Tất cả đền đài nghiêng
ngả say
(Nguyễn Trọng
Tạo)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét