Thứ Bảy, 22 tháng 6, 2013

CHUYỆN THẦY HÀ NHẬT LÀM THƠ

CHUYỆN THẦY HÀ NHẬT LÀM THƠ  
Ngô Minh


Đá sỏi trên đường là tập thơ đầu tay của nhà thơ - thầy giáo Hà  Nhật, khi thầy đã U80. Tại sao một nhà thơ có tiếng từ những năm 60 của thế kỷ XX, đến nay mới in tập thơ đầu tay ? Câu chuyện Hà Nhật làm thơ dài lắm. Tính từ bài thơ đầu tiên Đêm mưa Vĩ Giạ viết  năm 1953 in ở đầu tập, đến bài thơ Dưới chân núi Rùa viết năm 2009 cuối sách , là 56 năm. Năm mươi sáu năm để có một tập thơ 51 bài, quả là bất quý hồ đa. Đọc Sỏi đá trên đường ta thấy thơ như sự cô đặc của tâm tình, tâm cảm. Xin lướt qua thời gian: học ở Huế :Trên đồi sim/ Ánh dương chìm/ Chiều tàn lịm/ Tàn cả trong tim / ...Tiếc tình xưa tan võ / Như những cánh sim bay (Trên đồi sim, An Cựu, 1954). 22 tuổi, sinh viên , đang yêu ở Hà Nội năm 1958 :
Và đây là thơ tình viết ở giữa biển Đông năm 1961, 25 tuổi :
Sao lại yêu cả tên đường phố
Thấy cuộc đời ai ai cũng vui
Không biết vì sao vô cớ mỉm cười
Nói chuyện với cả cầu thang gác
 ( Khắp nơi )
Nếu ở cuối trời có đảo chân trâu
Hay ở đảo xa có nụ hoa thần tìm ra hạnh phúc 
Hay có người gái đẹp
Môi hồng như san hô 
Cũng không thể khiến anh xa được em yêu 
Nhưng hỡi em 
Nếu có người trai chưa từng qua bão tố
Chưa từng qua thử thách gian lao
Lẽ nào có thể xứng với tình em?
( Bài thơ tình của người thủy thủ)
Còn đây là thơ lúc đã quá thất tuần, ngồi “bên em” dưới chân núi Mu Rùa ở Phú Lộc, Huế 7-2009:  Anh ngồi bên em dưới chân núi Rùa / suốt cả buổi chiều/ để thấy mình không bằng được núi/  / Nghìn năm mây trắng bay trên núi Rùa / Nghìn năm múi Rùa hồn nhiên và lẳng lơ / Anh cả một đời tính toan và sợ hãi/ ... Đọc mấy khúc thơ Hà Nhật qua thời gian trong Đá sỏi trên đường, bạn đọc sẽ thấy nhà thơ ở tuổi nào cũng tài hoa, sâu sắc lắm. Hà Nhật vẫn cái nòi tình ấy, chứa chan và mới mẻ, đam mê và tinh tế. Ngoài những bài thơ nồng ấm về Mẹ , Hát mừng đất nước  , Đêm Quảng Bình nghe dân ca, Thị xã Hoa hồng, thơ tặng bạn, tặng con...,  đa phần thơ trong Đá sỏi trên đường đều là thơ tình như tro ủ lửa.Thơ tình của Hà Nhật hoàn toàn khác về chất so với loại thơ tình thời tiền chiến. Thơ tình tiền chiến buồn đẫm lệ. Còn Hà Nhật thì mạnh bạo, cứng cỏi  như bài Bài thơ tình của người thủy thủ : Em đừng hỏi. Vì sao anh ra đi . Cũng đừng hỏi. Chân trời xa có gì kêu gọi... Sự dấn thân của chàng trai trẻ giữa trùng khơi để chứng minh sức mạnh của tình yêu thật cao cả và hết mình. Cuối trời có đảo Trân-Châu / hay ở biển xa có nụ hoa thần tìm ra hạnh phúc/ Hay có người con gái đẹp môi hồng như san hô Cũng không thể khiến anh xa được em yêu Yêu em như thế, nhưng anh phải ra đi vựơt biển khơi, vì nếu “ chàng trai chưa từng qua bão tố/ Chưa từng vưọt qua nhiều thử thách gian lao / Lẽ nào xứng với tình em ?”. Không so sánh mà so sánh .Để có Sỏi đá trên đường, thầy Hà Nhật đã thực hiện một chuyến đi cả tháng trời về thăm quê, thăm lại những nơi xưa mình sống, làm thơ và dạy học như Đồng Hới, Huế, Lệ Thuỷ , Diễn Châu , Nghĩa Đàn ( Nghệ An) ...Đến đâu, thầy cũng được các thế hệ học trò, người yêu thơ tiếp đón nồng nhiệt. Và điều lạ lùng là gặp bất cứ ai, từ người bạn gái già, đến học trò bây giờ quan chức, thầy cũng hỏi nhỏ: “Em còn giữ được bài thơ nào của thầy không?”. Thầy bảo, thầy làm thơ từ năm 1953, vô Huế học Trường Khải Định (Trường Quốc học bây giờ), rồi những năm sinh viên ở Hà Nội, tính ra có đến hàng mấy trăm bài thơ, thế mà bây giờ trong tay chỉ  giữ có vài chục bài. Buồn thật. Hồi đó thầy không nghĩ đến chuyện lưu thơ, in thơ thành tập. Thơ làm xong là đọc cho mọi người nghe rồi tặng người đẹp. Tặng được thơ coi như thoả lòng, không trông mong gì hơn. Hơn nữa làm thơ tình thời đó được coi là “lối sống tiểu tư sản” v.v… nên gần như phải “làm thơ chui”, “đọc thơ chui” cho nhau nghe bên chiếu rượu. Bây giờ muốn in một tập thơ để kỷ niệm cuộc đời, phải đi cả ngàn cây số để tìm lại…Thơ Hà Nhật là thơ tình, không được phổ biến, lại là thơ không vần, thế mà ai cũng nhớ, cũng thuộc. Thơ ấy không lưu trữ trong thư viện quốc gia mà lưu trong tâm khảm người đọc .

*
Hà Nhật là bút danh của thầy giáo dạy văn nổi tiếng Lương Duy Cán. Ở Đồng Hới, Lệ Thuỷ có câu ngạn ngữ nói về hai thầy giáo dạy giỏi: “Văn Cán - Toán Trình”. Lứa học sinh cấp 3 Lệ Thuỷ yêu thơ khóa 1964-1968 của chúng tôi như: Lâm Thị Mỹ Dạ, Hải Kỳ, Lê Đình Ty, Ngô Minh, Trần Khởi, Nguyễn Minh Hoàng  .v.v..đã được học với cả hai thầy giáo ấy. Thầy Cán dạy văn giỏi và làm thơ hay nên rất nhiều thế hệ học sinh thuộc thơ thầy. Thơ Hà Nhật khảm vào trí nhớ độc giả miền Trung bao thế hệ. Có người thuộc mấy bài, một bài, có người chỉ thuộc một khổ thơ hay ý thơ. Họ ngồi với thầy bên chén rượu, đọc lên, rồi chắp nối lại từ trí nhớ, thành bài thơ hoàn chỉnh. Nhờ đó mà thầy đã “sưu tầm” lại được mấy chục bài thơ đã thất lạc. Có lẽ rất ít nhà thơ “có bảng hiệu” ở nước ta có được cái ân huệ “sưu tầm thơ mình trong công chúng” như Hà Nhật. Đó chính là sức sống lâu bền của thơ và nhà thơ trong trời đất! 
Cũng có nhiều bài thơ thầy không sưu tầm được vì không gặp tri âm. Sau khi nhận được tập  Sỏi đá trên đường thầy Hà Nhật gửi biếu, nhà văn già Xuân Đài từ  Sài Gòn đã gọi điện réo lên với tôi :” Thằng Hà Nhật còn có mấy bài thơ hay, mình đọc từ thời ở Hà Nội năm 1958, mình còn nhớ lỏm bỏm đôi câu, mà răng không chộ trong tập ni hè ?”. Còn nhà thơ Nguyễn Bùi Vợi trong bài “ Một thời viết thơ tình” kể về Hà Nhật hồi sinh viên ở Hà Nôi rất chân tình :  “...Chúng tôi dại dột rủ nhau in chung một tập thơ tình ở một nhà xuất bản tư nhân có tên là “Tre xanh” do ông Nguyễn Hoàng Quân chủ trương . Tập thơ mỏng dính , gần  hai chục bài. Nâng niu tập thơ trên tay , tôi mừng khôn xiết nhưng sau đó cảm giác xấu hổ không xóa đi được vì thấy thơ bạn tài hoa, bay bướm hơn thơ mình , mình không đáng đứng cạnh !” . Trong bài viết, nhà thơ Nguyễn Bùi Vợi cũng dẫn từ trí nhớ nhiều đoạn thơ của Hà Nhật mà mình thuộc lúc còn là sinh viên, như : Lúc bấy giờ em đọc lại thơ anh / Em hỏi bâng khuâng : / Có phải chăng mình / Chính là người trong thơ ca ngợi / Người trong thơ đến giờ vẫn chỉ là hai mươi tuổi / Và đến giờ nhan sắc vẫn chưa phai ..( Trong thơ anh) ; hay :  ...muốn dùng thư thay lời / thư nào cho hết nổi/ Khi những ngày xa xôi / Cứ thay nhau tiếp nối...( Khó nói ).v.v... Nhưng tiếc là những bài thơ đó không có trong  Sỏi đá trên đường , vì khi Hà Nhật  quyết định in thơ, Xuân Đài không hay biết, còn bạn thơ tri kỷ Nguyễn Bùi Vợi đã qua đời mấy năm rồi .
Thơ Hà Nhật bị thất tán nhiều cũng do thi sĩ rất thích xê dịch, tính lãng tử. Ai rủ đi là đi ngay. Đi thâu đêm thâu ngày. Có chén rượu , có người đẹp thì đọc thơ suốt đêm. Vì thích  lãng du, thích xê dịch, nên sau năm 1972, một nửa Quảng Trị được giải phóng, Hà Nhật đạp xe ngay vào Đông Hà, rồi cùng ông bạn thơ đồng niên Hoàng Phủ Ngọc Tường ngao du mấy ngày đêm miên man trên đất Quảng Trị còn nóng bỏng lửa bom. Hai người đi thắp nhang cho các ngôi mộ họ Hoàng ở xã Triệu Ái nắng nung bốc lửa, rồi dắt nhau vào các làng quê mới được giải phóng thăm bà con. Có bữa suýt đói meo vì “bệnh sĩ”. Bà con hỏi ăn chưa để nấu cơm, thì bảo “ăn rồi”. May mà bà con Quảng Trị chân chất cứ nấu và “ép” hai nhà thơ ăn cho bằng được! Bởi thế mà chuyến đi “tìm thơ”, gặp lại Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hà Nhật đã có thơ tặng bạn rưng rưng: Hãy cạn ly đi Tường ơi / Không  uống được vào môi / Thì nhấp bằng mắt vậy / Để ta nhớ một thời sôi nổi / Ngang dọc hai ta một dải đất gió Lào (“Uống rượu với Tường”). 
Sau 30-4- 1975, máu lãng du lại thôi thúc Hà Nhật tìm về phương Nam  Chuyến “Hành phương Nam” ấy thầy về dạy học ở Phan Rang, Phan Thiết một thời gian, may gặp cô giáo trẻ Thanh Phương mới có bến để neo đậu lòng mình. Rồi chị dắt anh vào Sài Gòn làm giảng viên Trường Cao đẳng Sư phạm.  Dạy học kiếm sống, nhưng cuộc đời thầy luôn luôn gắn với thơ. Thầy viết sách bình giảng thơ cho Nhà xuất bản Giáo dục, làm người bình thơ cho chương trình văn nghệ của HTV TP Hồ Chí Minh,...   
Nhưng thôi . 51 bài trong  Đá sỏi dọc đường cũng đáng “đồng tiền bát gạo” rồi.  Còn những câu thơ của Hà Nhật không sưu tầm được, nó vẫn ở đâu đó trong  lòng  bạn đọc với thương hiệu sống mãi: Hà - Nhật- Thơ.
*
Những năm 60 của thế kỷ trước, thơ không vần ở nước ta  mới chỉ là những sáng tác thể nghiệm của một vài tác giả chốn thị thành . Ngay ở Hà Nội , nhà thơ có thế lực Nguyễn Đình Thi làm thơ không vần cũng bị phản đối quyết liệt. Theo thi sĩ Hoàng Cầm trong hồi ức “ Nguyễn Đình Thi trong tôi- Nguyễn Đình Thi ngoài tôi”: “Một sáng đầu năm 1956, anh Thi đến nhà xuất bản Văn nghệ đưa cho tôi đọc tập thơ Người chiến sĩ tập hợp những bài anh sáng tác từ những ngày tháng đầu tiên của cuộc kháng chiến, và anh Thi yêu cầu tôi cho ấn hành ngay, càng sớm càng tốt. Tôi đọc xong, rất thú vị vì vẫn còn nguyên những bài thơ thể tự do mà lúc bấy giờ các anh Lê Đạt, Nguyễn Đình Thi đặt thành một luận đề để tranh luận là thơ không vần rồi hứng lấy thất bại. Bấy giờ (1956) mà in được những bài thơ cách tân ấy thì thật có lợi cho phong trào thơ và chỉ ít lâu nữa là có thể sánh vai bình đẳng với nền thơ các nước phương Tây “. Nhưng sau đó do sức ép của “cấp trên”, nhà văn Nguyễn Đình Thi phải xin lại bản thảo, sửa chữa tập thơ  Người chiến sĩ  thành những bài thơ theo vần truyền thống, rồi đưa lại của Nhà xuất bản. Thế là Hoàng Cầm, lúc đó là Phó giám đốc Nhà xuất bản Văn nghệ  quyết định : “một là in bản ban đầu (thơ tự do), nếu  anh Thi không chịu, thì không in nữa “.
Đó là ở Hà Nội thủ đô. Còn ở các tỉnh lẻ được xem là vương quốc của bảo thủ trong thơ. Những năm 1958 - 1975, nhà thơ Xuân Hoàng phụ trách Hội Văn Nghệ Quảng Bình, ai muốn in thơ phải viết có vần mới được in Tạp chí của Hội . Ây thế mà những bài thơ không vần của Hà Nhật viết ở Đồng Hới, nơi “tỉnh lẻ của tình lẻ”, lại nhuần nhuyễn, lung linh như những viên ngọc, ai cũng thích. Mới hay, thơ phải từ trái tim đến với trái tim . Miền quê nghèo khó đầy gió cát Quảng Bình đã sinh ra  những nhà thơ trứ danh  Thơ Mới, cả hiện đại và siêu thực như Hàn Mạc Tử, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Xuân Sanh ... từng một thời đi tiên phong trong làng thơ Việt Nam.  
Thơ Hà Nhật ý tứ sâu sắc, ngôn ngữ mới mẻ,  nên có ảnh hưởng đến nhiều thế hệ thơ trẻ . Hà Nhật lãng đãng thơ, lãng đãng em , không hề biết làm thơ phải lưu giữ để in thành tập, một tập rồi hai tập, để xin vào Hội Nhà văn Việt Nam, để đi  họp, đi hội thảo, đi trại sáng tác... Nghĩa là Hà Nhật không hề biết có một thứ hành chính ấy trong làng thơ.  Nhưng nhắc đến thơ Hà Nhật, trăm nhà thơ đều yêu mến, nể trọng.  Bởi thơ Hà Nhật vừa đam mê nồng cháy, vừa trí tuệ, chất chứa. Quê cũ nghèo không lúa không khoai / Chỉ có trời xanh và muối mặn (“Muối”). Gặp nhau bây giờ / Táo  trong vườn rụng hết / Thôi đừng nhắc nữa / Cho lòng đau / Nghe em (“Táo”). Tình anh như muối kia / Mặn mòi và lặng lẽ / Muối trăm đời vẫn thế / Tình anh không có màu (“Tình muối”). Ngay những bài thơ làm trong năm 2007, viết ở đến thơ An Dương Vương ở Ngệ An, Hà Nhật vẫn giữ được sự chất chứa ấy: /Đền Cuông - cuông bay hết / Về chi nữa em ơi / Cha già còn ngoảnh mặt / Mong gì đời sửa sai ! (“Đền Cuông”)… Hay : Anh bơ vơ giữa cuộc đời phù du / Chỉ có em thôi / Chỉ có em là thật... ( Bão số 2, 2007). 
Sau Hiệp định Genève, Hà Nhật từ trường Khải Định, Huế ra Hà Nội học tiếp Đệ nhị và đỗ tú tài Toán năm 1956. Học giỏi toán nhưng lại xin thi vào sư phạm Văn. Hồi sinh viên học Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nhật thường chơi thân thơ phú với các nhà thơ, nhà văn cùng trang lứa như Phùng Quán, Nguyễn Bùi Vợi, Vân Long, Băng Sơn, Thúc Hà …  Đó  là thế hệ nhà  thơ cách tân, mới mẻ. Nhà thơ Nguyễn Bùi Vợi vẫn thường nhắc đến anh bạn thơ Hà Nhật dân Quảng Bình gầy đen, nhưng rất thông minh, nhạy cảm và đa tình. Từ năm 1956, khi mới  chưa đầy 20 tuổi, Hà Nhật đã có những bài thơ “Đợi đò”, “Mưa Huế” rất sắc sảo. Trong bài “Mưa Huế”, hình bóng những cô gái Huế rất đẹp: Dáng gầy như cỏ cây quê mẹ / Giếng tình thăm thẳm mắt không vơi…” . Hà Nhật còn hăng hái làm thơ gửi đăng báo Đất Mới, một kiểu báo Nhân văn của sinh viên thời ấy.  Rồi  hay la cà gần gũi với lớp đàn anh như Nguyễn Bính, Trần Dần, Lê Đạt, Quang Dũng, Nguyễn Đình, Trinh Đường và cat Bùi Xuân Phái nữa… Nên khi vụ Nhân văn–Giai phẩm xảy ra, tuy không “dính”, nhưng sinh viên Lương Duy Cán cũng bị ghi vào sổ đen. Vì thế năm 1959, tốt nghiệp Khoa Văn Đại học Sư phạm vào thời đó hiếm lắm, nhưng Hà Nhật không được bố trí dạy cấp 3, lại bị “phát vãng” về dạy cấp 2 ở Diễn Châu, Nghệ An ba năm liền. 
Sinh thời , Nguyễn Bùi Vợi  có lần kể cho nhà thơ Vương Trọng, Hoàng Cát và tôi nghe một chuyện vui cười ra nước mắt về Hà Nhật. Thời dạy học ở Nghệ An, có lần nhớ mất của thi hào Nguyễn Du, Hà Nhật cùng với một thầy giáo dạy văn cao to cùng trường đêm hôm tổ chức “tưởng niệm Nguyễn Du” ngay trong phòng ở của mình. Hai người thắp hương, đốt nến khấn rồi thay nhau nói về tính nhân văn trong thơ Nguyễn Du. Hai thầy giáo say mê không biết ở ngoài cửa có người rình . Nghe xong anh ta hốt hoảng đến ngay nhà ông lãnh đạo địa phương tố cáo là có hai người đêm hôm ca ngợi “nhân văn –giai phẩm”. Cái người gầy còm ( tức Hà Nhật) nói tới 18 lần “nhân văn”, còn người cao lớn nói  11 lần “nhân văn”. Vì hồi ấy, hai từ “nhân văn-giai phẩm” đồng nghĩa với  phản động. Mà dân quê thì không phân biệt được từ “nhân văn” sang trọng ấy  với vụ “nhân văn-giai phẩm”! Từ đó Hà Nhật bị “ghi vào sổ đen” một cách oan uổng. Hà Nhật có yêu một cô giáo quê ở Nghĩa Đàn, miền Tây Nghệ An, nhưng  khi gia đinh nghe nói thầy giáo này có dính tới nhân văn giai phẩm, thì kiên quyết không gả. Chính người con gái này là người đã “cho” Hà Nhật bài thơ tình nổi tiếng “ Bài thơ tình của người thuỷ thủ”. 
Thầy kể rằng, hồi năm 1962, vì buồn tình, nhân mấy ngày nghỉ, có mấy người ngư dân đi vận chuyển hàng hoá trên biển rủ thầy đi về quê bằng thuyền với họ. Từ Nghệ An vào Đồng Hới đi đường bộ thời đó cũng chỉ  ngày rưỡi, đi đường biển thì lâu hơn. Nhưng tính thầy thích ngao du, chuộng lạ. Thế là thầy lênh đênh trên biển với ngư dân ba ngày ba đêm ròng. Say sóng ngất ngưỡng, nôn ra mật xanh mật vàng, nhưng đổi lại thầy làm được hai bài thơ tình của người thuỷ thủ rất hay. Bài đầu có tứ rất “độc”:
Em hỏi tôi nước biển màu gì?
Tôi người thuỷ thủ từng lênh đênh năm tháng
Tôi sẽ nói cùng em
Nước biển dịu dàng, bí mật và cuồng nộ
Cũng như màu đôi mắt của em
Song dẫu thế nào tôi cũng sẽ đến bên em
Và tôi sẽ làm cho đôi mắt em xao động
Như gió ngày ngày đưa sóng về trên biển lặng
Bài sau là “Bài thơ tình của người thuỷ thủ” nổi tiếng , ai cũng thuộc .Khi  làm xong “Bài thơ tình của người thuỷ thủ”, thầy sợ không ký tên Hà Nhật mà ký tên là Mai Liêm, gửi báo ở Hà Nội, lấy địa chỉ liên lạc của một  người chị bà con bên mẹ là Chiến đang học ở Trường cấp 3 Đồng Hới (sau này thành vợ nhà thơ Hải Bằng). Khi báo đăng bài thơ, nhạc sĩ Hoàng Vân phổ nhạc đoạn 2, nhưng không đề “phổ thơ Mai Liêm”. Bài hát “Tình ca người thuỷ thủ” lập tức được công chúng thanh niên cả nước đón nhận nồng nhiệt. Đến hôm nay, trên Radio, tivi, nhiều ca sĩ vẫn hát “Tình ca người thuỷ thủ”…Cái bút danh Mai Liêm ấy thầy còn ký ở rất nhiều bài thơ khác. Những năm 1960 ấy, hàng loạt các tác phẩm văn học đầy chất sống, cuốn hút người đọc đã bị các nhà phê bình văn học “đánh” kịch liệt và xếp vào tội “xét lại” như các tiểu thuyết Mùa hoa dẻ, Nhãn đầu mùa, Mở hầm v.v Bài thơ, bài hát “Tình ca người thuỷ thủ” cũng bị phê phán là “lãng mạn tiểu tư sản”, “xét lại”. Có người còn chất vấn “Đi tìm gì, tìm ai ngoài khơi xa kia?”. Những ngày tháng đó, Hà Nhật cảm thấy cô đơn da diết.  Tôi có một câu thơ chết đuối dưới dòng sông / Tôi lãng quên suốt một thời trai trẻ (“Nói với dòng sông”). Bài thơ này thầy cũng quên không đưa vào tập Đá sỏi trên đường !

*
Năm 1964, thầy Hà Nhật về dạy ở cấp 3 Lệ Thuỷ, cũng là năm chúng tôi vào học cấp 3. Thầy Hà  Nhật và thầy giáo trẻ Phan Ngọc Thu đã truyền cho lớp chúng tôi một không khí yêu thơ, làm thơ rừng rực từ đấy. Những tiết học đầu tiên của năm lớp 8 trường huyện, học sơ tán dưới nhà hầm nửa chìm nửa nổi ở thôn Đông Liễu, xã Liên Thuỷ ấy, chúng tôi đã nghe thầy đọc những bài thơ tình nồng cháy của mình. Rồi thầy dạy cho chúng tôi bài hát Hoàng Vân phổ thơ thầy, dù lúc đó bài hát bị cấm phổ biến. Hồi đó cả lớp tôi làm thơ.  Cái lớp cấp 3 Lệ Thuỷ của chúng tôi ấy đến bây giờ có hàng chục người làm thơ. Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo có bài viết trên báo nhan đề “Một lớp - 2 thầy - 5 thi sĩ, hay nhà văn Hoàng Minh Tường viết  Ngũ kỳ thi nhân Lệ Thủy  là viết về thầy trò chúng tôi ngày ấy. Bây giờ thầy 77 tuổi, trò đứa nào cũng 64, 66 cả rồi, mà gặp nhau là đọc thơ suốt đêm. Anh bạn Nguyễn Minh Hoàng của tôi cũng học lớp 8C ấy, Hoàng học giỏi tự nhiên, sang Hungary học về chế biến cao su, về nước làm giám đốc Công ty cao su quốc doanh một thời gian dài ở Sài Gòn. Năm nào Hoàng ra Huế giỗ chạp cũng gặp nhau, không thấy hắn nói gì đến thơ phú. Năm ngoái bỗng dưng lại “đổ” ra làm thơ. Toàn thơ về vũ trụ, hạt cơ bản, rất  tinh tế. Nhà xuất bản Trẻ đã in 2 tập thơ Vũ trụ huyền diệu và Lục bát một câu dày dặn của Nguyễn Minh Hoàng. Tất cả đều khởi nguồn từ thầy Hà Nhật hơn 40 năm trước! Ngẫm ra,  mỗi nhà thơ đều có số phận riêng , có sức trường tồn riêng và  có sỏi đá riêng của mình trên con đường thơ thăm thẳm

Huế, tháng 7-2012
(*) Đá sỏi trên đường, thơ Hà Nhật , NXB Hội Nhà văn, 12-2011

Bài viết Ngô Minh/ Tác giả gửi bài

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét