CHUYỆN THẦY HÀ NHẬT LÀM THƠ
Đá
sỏi trên đường là tập thơ đầu tay của nhà thơ - thầy giáo Hà Nhật, khi
thầy đã U80. Tại sao một nhà thơ có tiếng từ những năm 60 của thế kỷ
XX, đến nay mới in tập thơ đầu tay ? Câu chuyện Hà Nhật làm thơ dài lắm.
Tính từ bài thơ đầu tiên Đêm mưa Vĩ Giạ viết năm 1953 in ở đầu tập,
đến bài thơ Dưới chân núi Rùa viết năm 2009 cuối sách , là 56 năm. Năm
mươi sáu năm để có một tập thơ 51 bài, quả là bất quý hồ đa. Đọc Sỏi đá
trên đường ta thấy thơ như sự cô đặc của tâm tình, tâm cảm. Xin lướt qua
thời gian: học ở Huế :Trên đồi sim/ Ánh dương chìm/ Chiều tàn lịm/ Tàn
cả trong tim / ...Tiếc tình xưa tan võ / Như những cánh sim bay (Trên
đồi sim, An Cựu, 1954). 22 tuổi, sinh viên , đang yêu ở Hà Nội năm 1958 :
Và đây là thơ tình viết ở giữa biển Đông năm 1961, 25 tuổi :
Sao lại yêu cả tên đường phố
Thấy cuộc đời ai ai cũng vui
Không biết vì sao vô cớ mỉm cười
Nói chuyện với cả cầu thang gác
( Khắp nơi )
Nếu ở cuối trời có đảo chân trâu
Hay ở đảo xa có nụ hoa thần tìm ra hạnh phúc
Hay có người gái đẹp
Môi hồng như san hô
Cũng không thể khiến anh xa được em yêu
Nhưng hỡi em
Nếu có người trai chưa từng qua bão tố
Chưa từng qua thử thách gian lao
Lẽ nào có thể xứng với tình em?
( Bài thơ tình của người thủy thủ)
Còn
đây là thơ lúc đã quá thất tuần, ngồi “bên em” dưới chân núi Mu Rùa ở
Phú Lộc, Huế 7-2009: Anh ngồi bên em dưới chân núi Rùa / suốt cả buổi
chiều/ để thấy mình không bằng được núi/ / Nghìn năm mây trắng bay trên
núi Rùa / Nghìn năm múi Rùa hồn nhiên và lẳng lơ / Anh cả một đời tính
toan và sợ hãi/ ... Đọc mấy khúc thơ Hà Nhật qua thời gian trong Đá sỏi
trên đường, bạn đọc sẽ thấy nhà thơ ở tuổi nào cũng tài hoa, sâu sắc
lắm. Hà Nhật vẫn cái nòi tình ấy, chứa chan và mới mẻ, đam mê và tinh
tế. Ngoài những bài thơ nồng ấm về Mẹ , Hát mừng đất nước , Đêm Quảng
Bình nghe dân ca, Thị xã Hoa hồng, thơ tặng bạn, tặng con..., đa phần
thơ trong Đá sỏi trên đường đều là thơ tình như tro ủ lửa.Thơ tình của
Hà Nhật hoàn toàn khác về chất so với loại thơ tình thời tiền chiến. Thơ
tình tiền chiến buồn đẫm lệ. Còn Hà Nhật thì mạnh bạo, cứng cỏi như
bài Bài thơ tình của người thủy thủ : Em đừng hỏi. Vì sao anh ra đi .
Cũng đừng hỏi. Chân trời xa có gì kêu gọi... Sự dấn thân của chàng trai
trẻ giữa trùng khơi để chứng minh sức mạnh của tình yêu thật cao cả và
hết mình. Cuối trời có đảo Trân-Châu / hay ở biển xa có nụ hoa thần tìm
ra hạnh phúc/ Hay có người con gái đẹp môi hồng như san hô Cũng không
thể khiến anh xa được em yêu Yêu em như thế, nhưng anh phải ra đi vựơt
biển khơi, vì nếu “ chàng trai chưa từng qua bão tố/ Chưa từng vưọt qua
nhiều thử thách gian lao / Lẽ nào xứng với tình em ?”. Không so sánh mà
so sánh .Để
có Sỏi đá trên đường, thầy Hà Nhật đã thực hiện một chuyến đi cả tháng
trời về thăm quê, thăm lại những nơi xưa mình sống, làm thơ và dạy học
như Đồng Hới, Huế, Lệ Thuỷ , Diễn Châu , Nghĩa Đàn ( Nghệ An) ...Đến
đâu, thầy cũng được các thế hệ học trò, người yêu thơ tiếp đón nồng
nhiệt. Và điều lạ lùng là gặp bất cứ ai, từ người bạn gái già, đến học
trò bây giờ quan chức, thầy cũng hỏi nhỏ: “Em còn giữ được bài thơ nào
của thầy không?”. Thầy bảo, thầy làm thơ từ năm 1953, vô Huế học Trường
Khải Định (Trường Quốc học bây giờ), rồi những năm sinh viên ở Hà Nội,
tính ra có đến hàng mấy trăm bài thơ, thế mà bây giờ trong tay chỉ giữ
có vài chục bài. Buồn thật. Hồi đó thầy không nghĩ đến chuyện lưu thơ,
in thơ thành tập. Thơ làm xong là đọc cho mọi người nghe rồi tặng người
đẹp. Tặng được thơ coi như thoả lòng, không trông mong gì hơn. Hơn nữa
làm thơ tình thời đó được coi là “lối sống tiểu tư sản” v.v… nên gần như
phải “làm thơ chui”, “đọc thơ chui” cho nhau nghe bên chiếu rượu. Bây
giờ muốn in một tập thơ để kỷ niệm cuộc đời, phải đi cả ngàn cây số để
tìm lại…Thơ Hà Nhật là thơ tình, không được phổ biến, lại là thơ không
vần, thế mà ai cũng nhớ, cũng thuộc. Thơ ấy không lưu trữ trong thư viện
quốc gia mà lưu trong tâm khảm người đọc .
*
*
Hà
Nhật là bút danh của thầy giáo dạy văn nổi tiếng Lương Duy Cán. Ở Đồng
Hới, Lệ Thuỷ có câu ngạn ngữ nói về hai thầy giáo dạy giỏi: “Văn Cán -
Toán Trình”. Lứa học sinh cấp 3 Lệ Thuỷ yêu thơ khóa 1964-1968 của chúng
tôi như: Lâm Thị Mỹ Dạ, Hải Kỳ, Lê Đình Ty, Ngô Minh, Trần Khởi, Nguyễn
Minh Hoàng .v.v..đã được học với cả hai thầy giáo ấy. Thầy Cán dạy văn
giỏi và làm thơ hay nên rất nhiều thế hệ học sinh thuộc thơ thầy. Thơ
Hà Nhật khảm vào trí nhớ độc giả miền Trung bao thế hệ. Có người thuộc
mấy bài, một bài, có người chỉ thuộc một khổ thơ hay ý thơ. Họ ngồi với
thầy bên chén rượu, đọc lên, rồi chắp nối lại từ trí nhớ, thành bài thơ
hoàn chỉnh. Nhờ đó mà thầy đã “sưu tầm” lại được mấy chục bài thơ đã
thất lạc. Có lẽ rất ít nhà thơ “có bảng hiệu” ở nước ta có được cái ân
huệ “sưu tầm thơ mình trong công chúng” như Hà Nhật. Đó chính là sức
sống lâu bền của thơ và nhà thơ trong trời đất!
Cũng
có nhiều bài thơ thầy không sưu tầm được vì không gặp tri âm. Sau khi
nhận được tập Sỏi đá trên đường thầy Hà Nhật gửi biếu, nhà văn già Xuân
Đài từ Sài Gòn đã gọi điện réo lên với tôi :” Thằng Hà Nhật còn có mấy
bài thơ hay, mình đọc từ thời ở Hà Nội năm 1958, mình còn nhớ lỏm bỏm
đôi câu, mà răng không chộ trong tập ni hè ?”. Còn nhà thơ Nguyễn Bùi
Vợi trong bài “ Một thời viết thơ tình” kể về Hà Nhật hồi sinh viên ở Hà
Nôi rất chân tình : “...Chúng tôi dại dột rủ nhau in chung một tập thơ
tình ở một nhà xuất bản tư nhân có tên là “Tre xanh” do ông Nguyễn
Hoàng Quân chủ trương . Tập thơ mỏng dính , gần hai chục bài. Nâng niu
tập thơ trên tay , tôi mừng khôn xiết nhưng sau đó cảm giác xấu hổ không
xóa đi được vì thấy thơ bạn tài hoa, bay bướm hơn thơ mình , mình không
đáng đứng cạnh !” . Trong bài viết, nhà thơ Nguyễn Bùi Vợi cũng dẫn từ
trí nhớ nhiều đoạn thơ của Hà Nhật mà mình thuộc lúc còn là sinh viên,
như : Lúc bấy giờ em đọc lại thơ anh / Em hỏi bâng khuâng : / Có phải
chăng mình / Chính là người trong thơ ca ngợi / Người trong thơ đến giờ
vẫn chỉ là hai mươi tuổi / Và đến giờ nhan sắc vẫn chưa phai ..( Trong
thơ anh) ; hay : ...muốn dùng thư thay lời / thư nào cho hết nổi/ Khi
những ngày xa xôi / Cứ thay nhau tiếp nối...( Khó nói ).v.v... Nhưng
tiếc là những bài thơ đó không có trong Sỏi đá trên đường , vì khi Hà
Nhật quyết định in thơ, Xuân Đài không hay biết, còn bạn thơ tri kỷ
Nguyễn Bùi Vợi đã qua đời mấy năm rồi .
Thơ
Hà Nhật bị thất tán nhiều cũng do thi sĩ rất thích xê dịch, tính lãng
tử. Ai rủ đi là đi ngay. Đi thâu đêm thâu ngày. Có chén rượu , có người
đẹp thì đọc thơ suốt đêm. Vì thích lãng du, thích xê dịch, nên sau năm
1972, một nửa Quảng Trị được giải phóng, Hà Nhật đạp xe ngay vào Đông
Hà, rồi cùng ông bạn thơ đồng niên Hoàng Phủ Ngọc Tường ngao du mấy ngày
đêm miên man trên đất Quảng Trị còn nóng bỏng lửa bom. Hai người đi
thắp nhang cho các ngôi mộ họ Hoàng ở xã Triệu Ái nắng nung bốc lửa, rồi
dắt nhau vào các làng quê mới được giải phóng thăm bà con. Có bữa suýt
đói meo vì “bệnh sĩ”. Bà con hỏi ăn chưa để nấu cơm, thì bảo “ăn rồi”.
May mà bà con Quảng Trị chân chất cứ nấu và “ép” hai nhà thơ ăn cho bằng
được! Bởi thế mà chuyến đi “tìm thơ”, gặp lại Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hà
Nhật đã có thơ tặng bạn rưng rưng: Hãy cạn ly đi Tường ơi / Không uống
được vào môi / Thì nhấp bằng mắt vậy / Để ta nhớ một thời sôi nổi /
Ngang dọc hai ta một dải đất gió Lào (“Uống rượu với Tường”).
Sau
30-4- 1975, máu lãng du lại thôi thúc Hà Nhật tìm về phương Nam Chuyến
“Hành phương Nam” ấy thầy về dạy học ở Phan Rang, Phan Thiết một thời
gian, may gặp cô giáo trẻ Thanh Phương mới có bến để neo đậu lòng mình.
Rồi chị dắt anh vào Sài Gòn làm giảng viên Trường Cao đẳng Sư phạm. Dạy
học kiếm sống, nhưng cuộc đời thầy luôn luôn gắn với thơ. Thầy viết
sách bình giảng thơ cho Nhà xuất bản Giáo dục, làm người bình thơ cho
chương trình văn nghệ của HTV TP Hồ Chí Minh,...
Nhưng
thôi . 51 bài trong Đá sỏi dọc đường cũng đáng “đồng tiền bát gạo”
rồi. Còn những câu thơ của Hà Nhật không sưu tầm được, nó vẫn ở đâu đó
trong lòng bạn đọc với thương hiệu sống mãi: Hà - Nhật- Thơ.
*
Những
năm 60 của thế kỷ trước, thơ không vần ở nước ta mới chỉ là những sáng
tác thể nghiệm của một vài tác giả chốn thị thành . Ngay ở Hà Nội , nhà
thơ có thế lực Nguyễn Đình Thi làm thơ không vần cũng bị phản đối quyết
liệt. Theo thi sĩ Hoàng Cầm trong hồi ức “ Nguyễn Đình Thi trong tôi-
Nguyễn Đình Thi ngoài tôi”: “Một sáng đầu năm 1956, anh Thi đến nhà xuất
bản Văn nghệ đưa cho tôi đọc tập thơ Người chiến sĩ tập hợp những bài
anh sáng tác từ những ngày tháng đầu tiên của cuộc kháng chiến, và anh
Thi yêu cầu tôi cho ấn hành ngay, càng sớm càng tốt. Tôi đọc xong, rất
thú vị vì vẫn còn nguyên những bài thơ thể tự do mà lúc bấy giờ các anh
Lê Đạt, Nguyễn Đình Thi đặt thành một luận đề để tranh luận là thơ không
vần rồi hứng lấy thất bại. Bấy giờ (1956) mà in được những bài thơ cách
tân ấy thì thật có lợi cho phong trào thơ và chỉ ít lâu nữa là có thể
sánh vai bình đẳng với nền thơ các nước phương Tây “. Nhưng sau đó do
sức ép của “cấp trên”, nhà văn Nguyễn Đình Thi phải xin lại bản thảo,
sửa chữa tập thơ Người chiến sĩ thành những bài thơ theo vần truyền
thống, rồi đưa lại của Nhà xuất bản. Thế là Hoàng Cầm, lúc đó là Phó
giám đốc Nhà xuất bản Văn nghệ quyết định : “một là in bản ban đầu (thơ
tự do), nếu anh Thi không chịu, thì không in nữa “.
Đó
là ở Hà Nội thủ đô. Còn ở các tỉnh lẻ được xem là vương quốc của bảo
thủ trong thơ. Những năm 1958 - 1975, nhà thơ Xuân Hoàng phụ trách Hội
Văn Nghệ Quảng Bình, ai muốn in thơ phải viết có vần mới được in Tạp chí
của Hội . Ây thế mà những bài thơ không vần của Hà Nhật viết ở Đồng
Hới, nơi “tỉnh lẻ của tình lẻ”, lại nhuần nhuyễn, lung linh như những
viên ngọc, ai cũng thích. Mới hay, thơ phải từ trái tim đến với trái tim
. Miền quê nghèo khó đầy gió cát Quảng Bình đã sinh ra những nhà thơ
trứ danh Thơ Mới, cả hiện đại và siêu thực như Hàn Mạc Tử, Lưu Trọng
Lư, Nguyễn Xuân Sanh ... từng một thời đi tiên phong trong làng thơ Việt
Nam.
Thơ
Hà Nhật ý tứ sâu sắc, ngôn ngữ mới mẻ, nên có ảnh hưởng đến nhiều thế
hệ thơ trẻ . Hà Nhật lãng đãng thơ, lãng đãng em , không hề biết làm thơ
phải lưu giữ để in thành tập, một tập rồi hai tập, để xin vào Hội Nhà
văn Việt Nam, để đi họp, đi hội thảo, đi trại sáng tác... Nghĩa là Hà
Nhật không hề biết có một thứ hành chính ấy trong làng thơ. Nhưng nhắc
đến thơ Hà Nhật, trăm nhà thơ đều yêu mến, nể trọng. Bởi thơ Hà Nhật
vừa đam mê nồng cháy, vừa trí tuệ, chất chứa. Quê cũ nghèo không lúa
không khoai / Chỉ có trời xanh và muối mặn (“Muối”). Gặp nhau bây giờ /
Táo trong vườn rụng hết / Thôi đừng nhắc nữa / Cho lòng đau / Nghe em
(“Táo”). Tình anh như muối kia / Mặn mòi và lặng lẽ / Muối trăm đời vẫn
thế / Tình anh không có màu (“Tình muối”). Ngay những bài thơ làm trong
năm 2007, viết ở đến thơ An Dương Vương ở Ngệ An, Hà Nhật vẫn giữ được
sự chất chứa ấy: /Đền Cuông - cuông bay hết / Về chi nữa em ơi / Cha già
còn ngoảnh mặt / Mong gì đời sửa sai ! (“Đền Cuông”)… Hay : Anh bơ vơ
giữa cuộc đời phù du / Chỉ có em thôi / Chỉ có em là thật... ( Bão số 2,
2007).
Sau
Hiệp định Genève, Hà Nhật từ trường Khải Định, Huế ra Hà Nội học tiếp
Đệ nhị và đỗ tú tài Toán năm 1956. Học giỏi toán nhưng lại xin thi vào
sư phạm Văn. Hồi sinh viên học Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nhật thường
chơi thân thơ phú với các nhà thơ, nhà văn cùng trang lứa như Phùng
Quán, Nguyễn Bùi Vợi, Vân Long, Băng Sơn, Thúc Hà … Đó là thế hệ nhà
thơ cách tân, mới mẻ. Nhà thơ Nguyễn Bùi Vợi vẫn thường nhắc đến anh
bạn thơ Hà Nhật dân Quảng Bình gầy đen, nhưng rất thông minh, nhạy cảm
và đa tình. Từ năm 1956, khi mới chưa đầy 20 tuổi, Hà Nhật đã có những
bài thơ “Đợi đò”, “Mưa Huế” rất sắc sảo. Trong bài “Mưa Huế”, hình bóng
những cô gái Huế rất đẹp: Dáng gầy như cỏ cây quê mẹ / Giếng tình thăm
thẳm mắt không vơi…” . Hà Nhật còn hăng hái làm thơ gửi đăng báo Đất
Mới, một kiểu báo Nhân văn của sinh viên thời ấy. Rồi hay la cà gần
gũi với lớp đàn anh như Nguyễn Bính, Trần Dần, Lê Đạt, Quang Dũng,
Nguyễn Đình, Trinh Đường và cat Bùi Xuân Phái nữa… Nên khi vụ Nhân
văn–Giai phẩm xảy ra, tuy không “dính”, nhưng sinh viên Lương Duy Cán
cũng bị ghi vào sổ đen. Vì thế năm 1959, tốt nghiệp Khoa Văn Đại học Sư
phạm vào thời đó hiếm lắm, nhưng Hà Nhật không được bố trí dạy cấp 3,
lại bị “phát vãng” về dạy cấp 2 ở Diễn Châu, Nghệ An ba năm liền.
Sinh
thời , Nguyễn Bùi Vợi có lần kể cho nhà thơ Vương Trọng, Hoàng Cát và
tôi nghe một chuyện vui cười ra nước mắt về Hà Nhật. Thời dạy học ở Nghệ
An, có lần nhớ mất của thi hào Nguyễn Du, Hà Nhật cùng với một thầy
giáo dạy văn cao to cùng trường đêm hôm tổ chức “tưởng niệm Nguyễn Du”
ngay trong phòng ở của mình. Hai người thắp hương, đốt nến khấn rồi thay
nhau nói về tính nhân văn trong thơ Nguyễn Du. Hai thầy giáo say mê
không biết ở ngoài cửa có người rình . Nghe xong anh ta hốt hoảng đến
ngay nhà ông lãnh đạo địa phương tố cáo là có hai người đêm hôm ca ngợi
“nhân văn –giai phẩm”. Cái người gầy còm ( tức Hà Nhật) nói tới 18 lần
“nhân văn”, còn người cao lớn nói 11 lần “nhân văn”. Vì hồi ấy, hai từ
“nhân văn-giai phẩm” đồng nghĩa với phản động. Mà dân quê thì không
phân biệt được từ “nhân văn” sang trọng ấy với vụ “nhân văn-giai phẩm”!
Từ đó Hà Nhật bị “ghi vào sổ đen” một cách oan uổng. Hà Nhật có yêu một
cô giáo quê ở Nghĩa Đàn, miền Tây Nghệ An, nhưng khi gia đinh nghe nói
thầy giáo này có dính tới nhân văn giai phẩm, thì kiên quyết không gả.
Chính người con gái này là người đã “cho” Hà Nhật bài thơ tình nổi tiếng
“ Bài thơ tình của người thuỷ thủ”.
Thầy
kể rằng, hồi năm 1962, vì buồn tình, nhân mấy ngày nghỉ, có mấy người
ngư dân đi vận chuyển hàng hoá trên biển rủ thầy đi về quê bằng thuyền
với họ. Từ Nghệ An vào Đồng Hới đi đường bộ thời đó cũng chỉ ngày rưỡi,
đi đường biển thì lâu hơn. Nhưng tính thầy thích ngao du, chuộng lạ.
Thế là thầy lênh đênh trên biển với ngư dân ba ngày ba đêm ròng. Say
sóng ngất ngưỡng, nôn ra mật xanh mật vàng, nhưng đổi lại thầy làm được
hai bài thơ tình của người thuỷ thủ rất hay. Bài đầu có tứ rất “độc”:
Em hỏi tôi nước biển màu gì?
Tôi người thuỷ thủ từng lênh đênh năm tháng
Tôi sẽ nói cùng em
Nước biển dịu dàng, bí mật và cuồng nộ
Cũng như màu đôi mắt của em
Song dẫu thế nào tôi cũng sẽ đến bên em
Và tôi sẽ làm cho đôi mắt em xao động
Như gió ngày ngày đưa sóng về trên biển lặng
Bài
sau là “Bài thơ tình của người thuỷ thủ” nổi tiếng , ai cũng thuộc .Khi
làm xong “Bài thơ tình của người thuỷ thủ”, thầy sợ không ký tên Hà
Nhật mà ký tên là Mai Liêm, gửi báo ở Hà Nội, lấy địa chỉ liên lạc của
một người chị bà con bên mẹ là Chiến đang học ở Trường cấp 3 Đồng Hới
(sau này thành vợ nhà thơ Hải Bằng). Khi báo đăng bài thơ, nhạc sĩ Hoàng
Vân phổ nhạc đoạn 2, nhưng không đề “phổ thơ Mai Liêm”. Bài hát “Tình
ca người thuỷ thủ” lập tức được công chúng thanh niên cả nước đón nhận
nồng nhiệt. Đến hôm nay, trên Radio, tivi, nhiều ca sĩ vẫn hát “Tình ca
người thuỷ thủ”…Cái bút danh Mai Liêm ấy thầy còn ký ở rất nhiều bài thơ
khác. Những năm 1960 ấy, hàng loạt các tác phẩm văn học đầy chất sống,
cuốn hút người đọc đã bị các nhà phê bình văn học “đánh” kịch liệt và
xếp vào tội “xét lại” như các tiểu thuyết Mùa hoa dẻ, Nhãn đầu mùa, Mở
hầm v.v Bài thơ, bài hát “Tình ca người thuỷ thủ” cũng bị phê phán là
“lãng mạn tiểu tư sản”, “xét lại”. Có người còn chất vấn “Đi tìm gì, tìm
ai ngoài khơi xa kia?”. Những ngày tháng đó, Hà Nhật cảm thấy cô đơn da
diết. Tôi có một câu thơ chết đuối dưới dòng sông / Tôi lãng quên suốt
một thời trai trẻ (“Nói với dòng sông”). Bài thơ này thầy cũng quên
không đưa vào tập Đá sỏi trên đường !
*
Năm
1964, thầy Hà Nhật về dạy ở cấp 3 Lệ Thuỷ, cũng là năm chúng tôi vào
học cấp 3. Thầy Hà Nhật và thầy giáo trẻ Phan Ngọc Thu đã truyền cho
lớp chúng tôi một không khí yêu thơ, làm thơ rừng rực từ đấy. Những tiết
học đầu tiên của năm lớp 8 trường huyện, học sơ tán dưới nhà hầm nửa
chìm nửa nổi ở thôn Đông Liễu, xã Liên Thuỷ ấy, chúng tôi đã nghe thầy
đọc những bài thơ tình nồng cháy của mình. Rồi thầy dạy cho chúng tôi
bài hát Hoàng Vân phổ thơ thầy, dù lúc đó bài hát bị cấm phổ biến. Hồi
đó cả lớp tôi làm thơ. Cái lớp cấp 3 Lệ Thuỷ của chúng tôi ấy đến bây
giờ có hàng chục người làm thơ. Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo có bài viết
trên báo nhan đề “Một lớp - 2 thầy - 5 thi sĩ, hay nhà văn Hoàng Minh
Tường viết Ngũ kỳ thi nhân Lệ Thủy là viết về thầy trò chúng tôi ngày
ấy. Bây giờ thầy 77 tuổi, trò đứa nào cũng 64, 66 cả rồi, mà gặp nhau là
đọc thơ suốt đêm. Anh bạn Nguyễn Minh Hoàng của tôi cũng học lớp 8C ấy,
Hoàng học giỏi tự nhiên, sang Hungary học về chế biến cao su, về nước
làm giám đốc Công ty cao su quốc doanh một thời gian dài ở Sài Gòn. Năm
nào Hoàng ra Huế giỗ chạp cũng gặp nhau, không thấy hắn nói gì đến thơ
phú. Năm ngoái bỗng dưng lại “đổ” ra làm thơ. Toàn thơ về vũ trụ, hạt cơ
bản, rất tinh tế. Nhà xuất bản Trẻ đã in 2 tập thơ Vũ trụ huyền diệu
và Lục bát một câu dày dặn của Nguyễn Minh Hoàng. Tất cả đều khởi nguồn
từ thầy Hà Nhật hơn 40 năm trước! Ngẫm ra, mỗi nhà thơ đều có số phận
riêng , có sức trường tồn riêng và có sỏi đá riêng của mình trên con
đường thơ thăm thẳm
Huế, tháng 7-2012
(*) Đá sỏi trên đường, thơ Hà Nhật , NXB Hội Nhà văn, 12-2011
Bài viết Ngô Minh/ Tác giả gửi bài
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét