Thứ Tư, 3 tháng 4, 2013

Viết về Lý Phương Liên


Lý Phương Liên và các bạn thơ trong buổi giới thiệu sách "Thơ bạn thơ"

L
Ý PHƯƠNG LIÊN
Chân dung văn học, trích ngang

Viết bởi:

Hoàng Trung Thông/ Phạm Đình Ân/ Trần Vân Hạc/ Hoàng Xuân Họa/
Nguyễn Văn Hòa/ Nguyễn Anh Tuấn/ Triệu Xuân/
 

DÒNG THƠ TRẺ CẦN MANG
NHỮNG TÌNH CẢM
VÀ TÂM HỒN THỜI ĐẠI



(trích) 
Hoàng Trung Thông

Trong dòng thơ trẻ trên miền Bắc hiện nay, xuất hiện nhiều cây bút có triển vọng, phần đông gắn bó với cuộc sống, xông xáo trên mặt trận sản xuất và chiến đấu, kết hợp tâm hồn mình với tâm hồn thời đại trong sáng, cao đẹp và rộng lớn. Họ có những đóng góp đáng khuyến khích cho phong trào thơ, nhưng đồng thời cũng có những mặt non yếu về tư tưởng và cuộc sống mà chúng ta cần quan tâm.
Những bài thơ của Lý Phương Liên lần đầu tiên được đăng báo Nhân Dân và các báo khác đã được đông đảo bạn đọc chú ý. Thơ Lý Phương Liên đến thẳng với trái tim người đọc bằng những hình ảnh xúc động, bằng cách nói trực tiếp và không kém phần sâu sắc. Từ một cảnh ngộ cụ thể làm ra, những bài thơ hay của Lý Phương Liên mang bản sắc riêng, khá cụ thể, khá sinh động, không trộn lẫn với những người khác mà rất gần gũi với chúng ta. Từ hình ảnh người cha "khi mắc dây thường hay thổi sáo" và có "đôi tay săn như gọng kìm", người mẹ "lặn lội thân cò nơi phố chợ ven sông" đến người yêu "chim bằng chẳng thể quanh ra quẩn vào", thơ của Lý Phương Liên không phải là cuộc sống vụn vặt, không đáng để ý. Từ những sự việc bình thường đó, người làm thơ đã nâng lên thành những cảm xúc thơ, trong sáng, và có khi đạt đến ý nghĩ rộng lớn của đời sống. Ca đêm là một ca mất ngủ, mệt nhọc, mà một người công nhân bình thường lại nhìn thấy đó là một "ca bình minh" với sáng tạo, sinh sôi, và thắng lợi:

Em gọi ca ba là ca bình minh/ Ý nghĩ ấy gặp em như một sự vô tình/ Đêm ca ba đi dọc đường Nam Bộ/ Tay vẫy chào những đoàn tàu rời ga Hàng Cỏ/ Đưa bộ đội lên đường/ Các anh đi suốt ca ba thẳng tới chiến trường/ Đón bình minh đất nước...

Lời ru trong đêm là một bài thơ khá độc đáo, tác giả đã mượn tiếng ru khi ngủ để nói lên thái độ làm hết sức mình khi lao động. Trong những bài thơ này, Lý Phương Liên đã tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống lao động hằng ngày trong xã hội chúng ta.
Ai cũng muốn mỗi ngày cuộc đời là một ngày sống đẹp
Bức tranh xã hội trong thơ Lý Phương Liên chưa thật giàu có, nhiều vẻ, nhưng đôi lúc Lý Phương Liên đã nói được những vấn đề lớn của dân tộc. Em mơ có một phiên tòa là một bài thơ thể hiện được tình cảm đó. Ở đây, niềm đau riêng đã hòa vào trong cuộc đấu tranh chung của dân tộc, tiếng nói căm thù ngắn gọn đã trở thành lời buộc tội đanh thép của những người đang chiến thắng. Đoạn đầu của bài thơ thật cảm động: Một phiên tòa với sự có mặt của các đồng bào khu phố, các đồng chí công an hộ tịch và "Năm chị em ngồi sát bên nhau". Rồi sự xuất hiện của người mẹ đã mất:/ Và sau làn hương trầm thoáng nhẹ/ Mẹ em về/ Mẹ em về/ Mẹ em về làm một người minh chứng..Những đoạn sau của bài thơ là cả "bầy giặc lái cúi đầu im lặng" trước sự thực của những lời buộc tội chắc nịch. Bài thơ còn thiếu sự cô đọng cần thiết, nhưng đã có sức truyền cảm khá mạnh. Bài thơ còn có sự lẫn lộn khi đặt ngang hàng cả chúng nó và chúng ta đều cầm súng, nhưng nói chung, là một bài thơ đạt.
Thơ Lý Phương Liên vốn hồn nhiên, giản dị, xúc động như vậy, và một số bài đăng báo đã tạo cho tác giả một dáng dấp riêng, một cách nói mới. Song bài thơ Nghĩ về Thúy Kiều đăng trên báo Văn nghệ lại làm cho người đọc ngạc nhiên về một giọng thơ khác hẳn: Rắc rối, cầu kỳ trong diễn tả, yếu đuối, sướt mướt trong tình cảm, bi quan, tăm tối trong tư tưởng. Lý Phương Liên hình như cũng muốn từ một cảnh ngộ riêng mà vươn đến sự trong sáng. Nhưng những gian nan, mất mát đè nặng trên người cứ được tô đậm lên mãi trong thơ, càng làm cho bài thơ chìm đắm trong xót xa, trong tiếng kêu rên, và nếu như tác giả muốn "thét lên", thét lên nữa thì đó cũng chỉ là tiếng thét của sự bất lực. Tự minh vận cho hoàn cảnh Thúy Kiều đã là một chuyện không nên về lạc lõng, đặt vấn đề "định mệnh" ra để chống định mệnh lại là một tư tưởng lỗi thời. Tác giả nói "Tuổi hai mươi không tin vào định mệnh. Định mệnh là đối thủ tiến công". Nhưng thực ra thì tư tưởng định mệnh đã như sợi dây vô hình trói chặt lấy người mình và tác giả cứ phải giãy giụa kêu lên thảm thiết với những nào "gõ cửa cuộc đời" (Cuộc đời nào?), những nào " tự mình giải phóng", "tự cứu", với thứ triết lý vu vơ "không ngọt êm mới là hạnh phúc" (!). Hình như tác giả đã đặt nhầm nơi và không thấy rõ hết bản chất chế độ ta. Một vài bài thơ khác cũng còn rơi rớt một số chữ, số câu mang tư tưởng, tình cảm nặng nề như thế.
Nghĩ về Thúy Kiều có một khoảng cách khá xa về tư tưởng và tình cảm với những bài trong sáng khác của Lý Phương Liên. Đó là một dòng đục đã chảy lẫn vào dòng suối thơ trong trẻo tươi mát của tác giả. Lý Phương Liên, qua bài Nghĩ về Thúy Kiều, chưa đặt mình trong hoàn cảnh chung của nhân dân và dân tộc, mà nâng mình lên tầm cao của cách mạng. Cái đau khổ riêng của cá nhân dẫu sao cũng chỉ là rất nhỏ so với sự hy sinh vĩ đại và sự anh hùng cao cả của nhân dân và dân tộc. Chỉ ngồi than thở với cảnh ngộ cá nhân thực tế là đã tự hạ thấp mình xuống.

Lý Phương Liên còn rất trẻ và có năng khiếu khá rõ. Sống thực thà và gắn bó sâu sắc với cuộc sống mới, thấm nhuần lý tưởng cao đẹp của thời đại, Lý Phương Liên có thể mở rộng hồn thơ của mình ra ngoài xã hội rộng lớn để đi xa hơn nữa về thơ, và để có những đóng góp tốt trong dòng thơ trẻ hiện nay.


(Phần tiếp, Hoàng Trung Thông ý kiến về tập thơ Cửa Mở của Việt Phương)

Hoàng Trung Thông
Báo Nhân Dân, Thứ Ba, 29/12/1970





VÀI HỒI ỨC VỀ
HIỆN TƯỢNG THƠ LÝ PHƯƠNG LIÊN
Phạm Đình Ân



Từ lâu tôi đã muốn viết về hiện tượng thơ Lý Phương Liên, nhưng khi phải cầm bút thực hiện bài này một cách khẩn trương cho kịp việc tái bản tập thơ "Ca bình minh" (in lần đầu năm 2011) thì lại bị vướng vào một hoàn cảnh sức khỏe không thuận lợi. Và điều đó cũng không cho phép tôi lục lọi trên ngăn tủ cao bề bộn tài liệu để tìm ra bản chép tay của chính tác giả và bản thảo chưa in có nhan đề "Lời ru của mẹ" do nhà thơ Huyền Kiêu để lại hơn bốn mươi năm trước. Tôi cũng chưa kịp đến thư viện đọc lại báo Nhân Dân những tháng đầu năm 1970. Tôi cũng chưa có dịp hỏi chuyện tác giả...
Vì những lý do đó, bài viết chắc chắn còn sơ sài và có thể đôi chỗ thiếu chính xác. Rất mong được nhà thơ Lý Phương Liên và bạn đọc góp ý; tôi sẽ đính chính và bổ sung ở một bài viết khác vào dịp gần nhất.



1. Cuối năm1969, vừa ra trường, tôi về báo Nhân Dân nhận việc. Chỉ sau đó mấy tháng, bước sang năm 1970, thơ Lý Phương Liên gây xôn xao dư luận trong giới văn chương và khá đông đảo người đọc. Hình như tất cả bắt đầu từ sự kiện báo Nhân Dân đăng thơ Lý Phương Liên - một nữ tác giả là công nhân, tuổi lứa hai mươi, với nhiều bài và chiếm diện tích rộng trên trang báo. Sự kiện như thế rất ít khi xảy ra trên tờ báo lớn này. Hồi ấy, đăng được trên báo Nhân Dân một bài thơ trữ tình ngắn thôi là điều khiến không ít tác giả ao ước. Tôi, dù trước đó chưa lâu, năm 1968, khi còn học năm thứ ba đại học lần đầu tiên đã được in thơ trên báo Văn nghệ (cùng trang với bạn cùng lớp là Hồ Thành Công- nhà thơ Thanh Thảo hiện nay) thế mà vẫn thấy gần như sửng sốt ngỡ ngàng trước hiện tượng thơ Lý Phương Liên, đôi khi chợt nhận thấy thơ mình còn sơ sài non nớt lắm. Những bài thơ Ca bình minh, Lời ru trong đêm, Lời ru với anh, Chờ anh dưới cột đồng hồ, Từ lời ru của mẹ và nhất là Trò chuyện với Thúy Kiều.. Lý Phương Liên đã khiến tôi say mê đến ngẩn ngơ và thường hay đọc thầm, cảm thấy lòng mình êm dịu, lại có phần xót xa, day dứt rồi ao ước một điều gì đó sáng trong, vừa cụ thể vừa mơ hồ...
Tôi còn nhớ trong cơ quan, mọi người thông báo cho nhau là chính Tổng Biên tập, nhà báo tài danh Hoàng Tùng, khi ấy là Ủy viên dự khuyết Trng ương, đã trực tiếp cho giới thiệu và đăng thơ của Lý Phương Liên. Khi đó, tôi không làm việc ở ban Văn nghệ cho nên không tường tận đường đi nước bước của thơ Lý Phương Liên đến với báo như thế nào, nhưng cũng tò mò tìm hiểu thì được biết thơ Liên không phải do ban Văn nghệ đưa lên. Báo Nhân Dân, dưới sự chỉ đạo của Tổng bên tập Hoàng Tùng khi đó, trước đó và cả sau này rất quan tâm đến người tài, trong đó có giới văn nghệ. Ngay sau đó, Lý Phương Liên được bố trí về làm việc ở ban Văn nghệ của báo Nhân Dân, với tư cách nhân viên giúp việc về chuyên môn. Rồi cũng không lâu, chị được chuyển sang nhà in báo Nhân Dân ( Trụ sở đặt tại phố Tràng Tiền, nay đã chuyển đi từ lâu).
Do Lý Phương Liên đến và đi quá nhanh, rồi mấy năm sau, gia đình chị lại chuyển vào thành phố Hồ Chí Minh định cư, thành thử tôi chưa một lần được gặp. Mãi đến mới đây, vợ chồng chị ra Hà Nội gặp bạn bè, hẹn nhau tại CLB Thanh Niên hồ Thuyền Quang, tôi mới được gặp chị. Còn anh Nguyễn Nguyên Bảy- chàng trai tài hoa lãng tử, thơ hay, những năm 1970-1971 đáng nhớ ấy, đâu như anh làm bên đài Phát thanh tiếng nói VN, tôi có được tiếp cận nhưng cũng chỉ thoáng qua. Buổi ấy, bạn bè đông, tôi không thể tâm sự riêng rằng tôi còn giữ được những tư liệu mà theo tôi là khá quý giá về thơ chị...
Năm 1970, thơ Lý Phương Liên thoắt trở nên một hiện tượng: hiện tượng thơ Lý Phương Liên với chùm bài thơ hay viết về gia đình, thân phận con người, tình yêu. Ngay sau đó là hiện tượng kép khi bài thơ Trò chuyện với Thúy Kiều gây nên dư luận trái chiều sâu sắc. Về mặt công khai thì ý kiến ngại ngần, khó cảm thông về bài thơ đó nhiều hơn. Rằng tác giả mượn xưa nói nay, nhìn cuộc sống đen tối. Rằng giữa lúc toàn dân đang kề vai sát cánh nỗ lực lao động, nâng cao tinh thần chiến đấu, tất cả cho tiền tuyến, thì sự có mặt của bài thơ là bất ổn...Tuy nhiên, trong đáy lòng nhiều người viết và nhiều người đọc, hoặc khi nhỏ to đây đó, thì bài thơ vẫn được coi không những là đúng mà còn là hay, rất hay nữa.
Lý Phương Liên dừng hẳn sáng tác, dừng hẳn công bố thơ ngay từ sau những năm ấy, có thể do hoặc là cảm hứng sáng tạo quá sôi trào đã phải tạm dừng lại đúng vào lúc xảy ra sự kiện bài thơ Trò chuyện với Thúy Kiều khiến tác giả bị hụt hẫng nặng, hoặc gia cảnh rất khó khăn, con đầu vừa sinh, khi chuyển nơi cư trú thì lại bận bịu tổ chức cuộc sống trong một hoàn cảnh mới lạ, v.v.

2. Có thể ai đó phát hiện ra thơ Lý Phương Liên rồi giới thiệu cho báo Nhân Dân, và như vậy báo Nhân Dân là nơi công bố gần như đầu tiên. Hoặc thơ chị đã được đăng ở đâu rồi, nhưng chắc chắn chưa lâu bởi vì sự xuất hiện của thơ Lý Phương Liên được xem là rất đột ngột.
Trong thời gian ấy, nhà thơ Huyền Kiêu công tác ở Hội Văn nghệ Hà Nội đã soạn và chuẩn bị đưa in tập thơ của Lý Phương Liên. Phải chăng chính ông đã giới thiệu tác giả này cho báo Nhân Dân? Tập bản thảo hơi dày, được đánh máy trên giấy pơ luya khổ rộng, ngoài bìa ghi tên tác giả, nhan đề tập thơ: "Lời ru của mẹ", phía cuối trang bìa ghi: "Hội Văn nghệ Hà Nội xuất bản", chữ viết tay chắc là của nhà thơ Huyền Kiêu. Tuy nhiên, do sự cố về bài thơ đã nêu, bản thảo tập thơ chìm vào quên lãng.
Tôi không còn nhớ một phiên bản đánh máy tại sao tôi lại có được.
Vài ba năm sau, khi mọi sự đã trở lại cân bằng, thơ Lý Phương Liên lại xuất hiện bằng lối đi vào sách. Đầu tiên là tập thơ Ca bình minh nhiều tác giả, NXB Văn học, tháng 10-1973, in lần thứ nhất 5200 cuốn, khổ 12x18,8. Ngoài Lý Phương Liên, còn có 10 tác giả khác. Phần thơ của Lý Phương Liên có 5 bài: 1.Tâm sự của bác thợ in 2. Ca bình minh 3. Về người cha đã khuất 4. Ý nghĩ bình minh 5. Lời ru trong đêm. Tại tập thơ xuất bản năm 2011, bài thứ nhất và thứ tư đã bị loại. Sau đó là tập "Thơ Việt Anh- Mỹ Hạnh- Lý Phương Liên- Hồng Ngát", Hội Văn nghệ Hà Nội xuất bản, tháng 5-1975, in 1500 cuốn. Biên tập sách là nhà thơ Hoài Anh Có thể xem đây là một tập thơ ghép ( Tập thơ trong tập thơ) vì mỗi tác giả đều có só số lượng bài nhiều, và đều đặt tên riêng cho phần thơ của mình. Phần thơ ( tập thơ) của Lý Phương Liên mang tên Hát về nhà máy, gồm 17 bài. So tập Ca bình minh xuất bản năm 2011 với tập này, bài Trả lời một bạn gái lớn tuổi được đổi thành Em vẫn sống như hồi còn có mẹ, và các bài Bài thơ gửi anh, Mấy phút gặp em bé dũng sĩ, Hát về nhà máy của chúng ta, Thợ nguội bị loại ra.
Như vậy, nếu những năm qua Lý Phương Liên không cho đăng Trò chuyện với Thúy Kiều thì kể từ năm 1970, bài thơ này mới xuất hiện trở lại trong tập thơ mới nhất của tác giả.

Ca bình minh (2011) trùng nhan đề với tập in chung (1973). Thế là Lý Phương Liên đã có tập thơ đầu tiên được in riêng, in đẹp, có sự góp sức, góp tình yêu thương và tài năng của cô con gái yêu Nguyễn Lý Phương Ngọc- thể hiện ở phần mỹ thuật và tranh phụ bản. Tập thơ nằng nặng tay không chỉ do giấy và bìa tốt mà chính là chất lượng tài hoa suy ngẫm sáng tạo thi ca- nghệ thuật của hai mẹ con; phía sau là niềm tin cậy, chở che, giúp đỡ hết lòng của người chồng, người cha- nhà thơ Nguyễn Nguyên Bảy.
Rất tiếc là tôi chưa lục tìm được tập bản thảo Lời ru trong đêm để so sánh xem những bài nào được xử dụng hoặc không ở cả ba lần xuất bản. Chỉ thấy rất vui là cả bốn mươi sáu bài in lần này đầu cuốn hút tôi, làm thức dậy trong tôi một thời tươi đẹp. Rất vui nữa là được gặp lại đôi vợ chồng nhà thơ mà tôi từng ngưỡng mộ và quý trọng. Lần xuất bản này, Lý Phương Liên gửi đến người đọc 27 bài thơ tình. Bạn đọc đã nhận ra một gương mặt thơ tình Lý Phương Liên. Thơ tình của chị không da diết, nóng bỏng, giận hờn, nghi hoặc, thất vọng, mà hồn nhiên, dịu dàng, tha thiết, tin cậy, ao ước, độ lượng... Đến với người yêu, Lý Phương Liên rũ bỏ hết buồn đau, bươn chải, để rồi như lại hoàn nguyên tâm hồn thiếu nữ. Nhịp thơ tình Lý Phương Liên nhiều khi như nhịp hát thầm. Thêm nữa, thơ tình của Lý Phương Liên cho thấy rõ nét hình ảnh con người thể chất của người con trai mình yêu (chứ không chỉ tinh thần,tâm hồn), trong khi nhiều cây bút nữ ít để ý đến điều này.Chị thương anh:
Mồ hôi trễ tròng kính cận
Anh xốc vác như một người khỏe mạnh
Ngực lép gầy tiếng hát vẫn bay cao

(Vàng yêu)
Và thương anh hơn nữa:
Anh ấy cao cao
....
Vẻ thông minh thu vào đôi mắt
Nốt ruồi cửa miệng làm duyên
Anh đến với con choáng ngợp phút đầu tiên
Là đôi mắt say và nụ cười như mới

(Xin phép mẹ đi lấy chồng)
Về ngôn ngữ thơ, hẳn không ai không dừng lại chú ý đến những câu, cụm câu xúc động và tinh tế như thế này:
- Đường ra biển có thể dài năm tháng
Mất mát nhiều hơn gian khổ cũng nhiều hơn
Nhưng một điều chắc chắn phi thường
Chúng tôi sẽ lên bờ vào một ngày nắng đẹp...
- Giữa biển lớn thuyền chúng ta lướt bến
Sáng toàn thân ánh sáng của con người

(Trò chuyện với Thúy Kiều)
- Khóc lóc bao nhiêu cũng chỉ là nước mắt
 

( Trò chuyện với sông Hồng)
- Ạ ơi những lời ru cũ
Cánh cò chít trắng tang mây
- Em đơn chiếc một cánh cò
Mà trời bao la quá

(Để thương để nhớ)
Cách nay hơn bốn mươi năm, thơ Lý Phương Liên đã mới, đã lạ. Đến hôm nay, vẫn những bài thơ ấy mà vẫn không cũ. Không hề cũ về ý nghĩa nhân văn, về xúc cảm nghệ thuật và nghề thơ.


Hà Nội, 20-10-2012

Phạm Đình Ân




ĐỌC BÀI THƠ “TẶNG TÌNH” CỦA LÝ PHƯƠNG LIÊN
Trần Vân Hạc

TẶNG TÌNH
Lý Phương Liên



 
Ai làm cầu bắc qua sông
Cho bờ em lại phải lòng bờ anh
Ai cho chim cả trời xanh
Để đầy tiếng hót trên cành yêu đương
Ai cho thuyền vượt sóng cồn
Anh bẻ lái, em giương buồm đi xa…

Thơ nào nói đến đôi ta
Nghe tình yêu đã chảy ra cuộc đời .

(Rút trong tập CA BÌNH MINH, NXB Văn học năm 2011)

Đò Đưa: Bài thơ lục bát gọn gàng, chặt chẽ trong cấu tứ và niêm luật, chỉ có tám dòng nhưng mở ra một không gian và thời gian không giới hạn. Tình yêu chân chính vốn như vậy, như ngọn nguồn suối mát lành lặng thầm thành những dòng sông trĩu nặng phù sa, để "Anh bẻ lái, em giương buồm đi xa…"
Đại từ phiếm chỉ: "Ai" được đặt ở đầu bài thơ và láy lại đến ba lần sao mà đắc dụng. Đã bao người tốn giấy mực lý giải chữ "Yêu" mà không tìm được lời giải trọn vẹn. Chỉ biết rằng khi người con trai và người con gái đã được sợi tơ hồng của ông tơ bà nguyệt xe duyên, là những trái tim son trẻ rung lên cung đàn muôn điệu của tình yêu, gắn kết họ với nhau, những bông hoa nhè nhẹ tỏa hương, những chú chim lựa những hợp âm trong vắt trong vòm lá, trời như xanh hơn, cuộc sống đáng yêu hơn trong từng hơi thở, trong mỗi ánh mắt trao duyên tình tứ. Ẩn dụ "Bờ anh" và "Bờ em" nghe nhẹ như không nhưng hàm chứa bao điều lớn lao. Nếu không chung nhịp đập của con tim thì làm sao "phải lòng" nhau được, chắc mãi xa nhau bên bồi, bên lở. Nhân vật trữ tình Em Anh trong bài thơ như đôi chim tung cánh trên bầu trời cao rộng, thả xuống những tiếng hót diệu kỳ, bất tận của tình yêu. Mỗi cành xanh đầy sức sống như lách tách chồi non mơn mởn, đơm hoa kết trái. Và con thuyền tình băng băng trên muôn lớp "sóng cồn". Hình ảnh "Anh bẻ lái, em giương buồm đi xa…" thấm đẫm chất liệu dân ca làm cho bài thơ vượt lên khuôn khổ của một đôi người yêu nhau cụ thể, mà như lời yêu của muôn người và muôn đời.
Bài thơ khép lại với hình ảnh:
Thơ nào nói đến đôi ta
Nghe tình yêu đã chảy ra cuộc đời
Cứ dư ba, lan tỏa những gợn sóng dịu êm ru mãi đôi bờ khát vọng. Hình tượng dòng sông trong bài thơ phải chăng chính là dòng sông tình yêu muôn thuở!

Hà Nội 9.1.2002



CA BÌNH MINH, MỘT VŨ TRỤ YÊU THƯƠNG
Hoàng Xuân Họa



Ca ba, một ca làm việc ở các nhà máy từ 10g tối hôm trước cho đến 6g sáng hôm sau, người thợ phải thức trắng đêm với công việc do mình phụ trách. Làm ca ba là một ca vừa mệt vừa tốn hao sức khỏe. Khi tan ca ra về đôi chân người thợ bâng lâng như bước trên mây, mắt lờ đờ vì thiếu ngủ, tai ù ù tiếng gió, tiếng ve mà người thợ - nhà thơ của chúng ta cảm hứng ca ba thành Ca Bình Minh? Một tứ thơ lung linh vẻ đẹp, ngời ngời sức sống, cũng là một phát hiện đậm chất thi ca, thăng hoa thi tứ. Bầu trời lúc bốn rưỡi, năm giờ sáng là lúc vầng dương bừng tỏa, trời hừng đông đón chào ngày mới, hy vọng mới với bao điều tốt lành cho mỗi người, mỗi nhà và công việc:



“Khi nói tới ca ba
Ca của những đêm hè trời đầy sao hoa
Ca của những đêm đông bập bùng ánh lửa
Còn em với niềm vui bé nhỏ
Em gọi ca ba là ca bình minh...”
Ca Bình Minh là tập thơ chở cả một vũ trụ yêu thương ngan ngát lời, khơi gợi ý: «Con gà đẻ một trái hồng/ Còn bao trái chín ở trong cuộc đời/Ôi sao cả đến nụ cười/ Vào thơ em cũng hóa lời yêu thương... » (Trái Hồng). Lời yêu thương được  lập trình đầy đặn từ tình yêu lứa đôi, tình yêu thương đối với mẹ cha, anh chị em, cộng đồng nơi Xóm Nhỏ có bà bán trầu cau, bác thợ điện, anh thợ kính, chị tráng bánh đa nem; nơi Ngã Ba “Lối nào cũng dẫn đôi ta trùng phùng”, cả cô Kiều bạc mệnh thời nào cũng có; dòng sông có con đò dìm tắt «năm mươi cuốc sống»… thậm chí vũ trụ tình yêu thương ấy dành cho cả «kẻ thù» được chị vẽ bằng trí tưởng tượng khá thành công trong bài Thư Gửi Người Bạn Gái Mỹ, theo nhà văn Mai Thục: Là bài thơ mang tính dự báo chính xác về mối quan hệ Việt - Mỹ đầu thế kỷ 21 mà chúng ta đã chứng kiến sau một khúc loanh quanh của lịch sử. Lịch sử cứ thích trêu ngươi vòng vo ba bốn chục năm «máu lửa»(1) mới tới được đích cuối cùng điểm đỗ:“Nếu bạn và cậu Gôn đến chơi nhà mình/ Chắc chắn được đón là khách quý/ Cậu Phát em mình dang đôi tay võ sĩ/ Ôm chầm lấy cậu Giôn…”  
Vũ trụ yêu thương ăm ắp đến chân tình ấy còn dành cho một người: Đó là nhà báo - nhà thơ Nguyễn Nguyên Bảy. Hai tâm hồn thơ đồng dòng tâm tư nắm chặt tay đi bên nhau suốt cuộc đời từ Bắc vào Nam trong cuộc mưu sinh của gia đình, gian nan nhưng hoàn thiện cuộc sống, toàn mỹ tinh thần viên mãn hạnh phúc. Ngay bài thơ đầu tiên, bài Tặng Tình đã cảm hóa ngay người đọc:

“Ai làm cầu bắc qua sông
Cho bờ em lại phải lòng bờ anh
Ai cho chim cả trời xanh
Để đồng tiếng hát trên cành yêu thương...”
Và:
“ Lòng em như cốc nước
Cốc nước đầy để trên bàn nhỏ
Cuộc địa chân yêu rung từng nhịp thở
Sóng sánh nước tràn ra”
(Đôi Ta).

Ca Bình Minh gồm 46 bài, Kẻ viết những dòng này thử vuốt râu thày phong thủy Nguyễn Nguyên Bảy, người chồng biệt nhân liên tài của Lý Phương Liên. Xin thày Bảy đánh chữ đại xá, cho được “bói mò» một “quẻ” đầu năm lấy… tí hên. Con số 46: 4 + 6 = 10; sắp xếp theo năm Can Chi của tử vi... chính thày Bảy soạn ở trang web phongthuynnb.com: Thế kỷ 20, có hai năm Canh Tuất, năm 1910 và năm 1970, đó là sáu mươi năm chu kỳ của một đời người. Năm 1970 (Canh Tuất), năm Lý Phương Liên phát tiết tài thơ cưỡi lên cổ thứ thơ cổ vũ phong trào bị nàng thơ đánh ghen làm hệ lụy đến cả gia đình. Bức xức với sự đời «đổi trắng thay đen» chị “chít trắng tang mây” xa lánh thơ 40 năm. Nhưng thơ chị đã làm rung động cảm xúc mấy thế hệ bạn đọc ngày ấy. Những người tuổi từ 60 – 90 từng là nhà giáo, sinh viên, bộ đội, công nhân hầu như đều đọc, thuộc bài Ca Bình Minh, Lời Ru Với Anh, Ngã Ba... trong lúc cuốc sống thời chiến chẳng dư dả gì, lấy thơ nâng đỡ tinh thần để làm việc và chiến đấu. Ngay buối tối ngày mùng 7 Tết Tân Mão, trong buổi gặp gỡ lần thứ hai, hai thi sĩ và cô con gái cưng của hai người, họa sỹ trẻ Nguyễn Lý phương Ngọc cùng chúng tôi đang ngồi đọc cho nhau nghe những bài thơ phải đi mấy chục năm đường vòng để trở lại với người yêu thơ Hà Nội nghìn năm văn hiến tại quán cafe CLB Văn hóa Thanh niên hồ Thiền Quang thì một đoàn khách chừng sáu, bảy người, trong đó có cả người nước ngoài vào quán để ăn tối. Nhà thơ Bích Ngọc, gặp một người quen, chị chào người quen của mình và giới thiệu:” Giới thiệu với giáo sư Hải Kế đây là nhà thơ Lý Phương Liên”. GS. Hải Kế ồ lên một tiếng rõ dài rồi anh tách khỏi đám bạn của mình đi đến, phấn khởi reo to: May quá, xin được bắt tay nhà thơ. Lần đầu tiên được bắt tay nhà thơ Ly Phương Liên...” Sau cái bắt tay, nhà sử học Hải Kế đứng đọc từ đầu đến cuối bài Ca Binh Minh. Lúc đó tôi đang mở sẵn trang thơ có bài Ca Bình Minh để trước mặt nên đọc nhẩm theo, thấy nhà giáo Hải Kế đọc không thừa một chữ, sai một câu. Nữ văn sỹ Mai Thục nắm chặt hai bàn tay Lý Phương Liên lắc mạnh, bảo: Liên thấy chưa, nhiều người thuộc thơ mình thế mà mình thì đi ở ẩn để lánh xa thơ?”. Cô con gái Phương Ngọc nghe vị giáo sư đọc thuộc lòng thơ của mẹ Liên, cô ôm lấy cánh tay của mẹ cụi cụi trán mình vào bờ vai mẹ âu yếm, ngạc nhiên, ngỡ ngàng. Thi sỹ Nguyễn Nguyên Bảy đang giải quẻ kinh dịch cho một chị từ CHLB Đức về nhà ăn Tết cũng dừng lại, mở túi lấy tập thơ đưa cho vợ đề tặng GS Hải Kế. Cuộc gặp gỡ không hẹn mà nên mang lại những tiếng cười giòn giã, tiếng cụng ly, tiếng chúc sức khỏe nhau tràn vang hai bàn tiệc xuân. Là người yêu thơ, thỉnh thoảng tôi cũng tập tọng làm thơ để chống troét (tress). Thật sự bất ngờ về một hiện tượng thơ bị “bão mưa ganh ghét” 40 năm vẫn còn nguyên cả bài thơ găm bền chắc trong trí nhớ bạn đọc giữa cuốc sống xô bồ hôm nay. Một điều hiếm thấy?
Cách nhìn, cách cảm trong thơ Lý Phương Liên vừa dung dị, có phần ngây thơ trước cuộc sống gian khó trong những năm chiến tranh, mọi đề tài chị viết cứ xanh mơ, trong veo trong từng cảm xúc:

Thật lòng em rất sợ mùa dông
Cảnh nghèo tìm đâu ra chăn lửa
Sợ quá hiều rồi nên không sợ nữa
Thương anh gày yếu của em ơi…”
(Xa nhau mùa đông).

“ Đã mơ hai chữ tình yêu
Cớ sao đám cưới tình yêu lại nghèo?”
(Đám cưới tình yêu)

«Vào nhà em
Mùa đông phải mặc áo ấm
Mùa hè quạt cả mồ hôi sang quạt...»
(Nhà Em)

Và những câu mang mang hơi thở phập phồng của phố phường thời chiến. Ga Hàng Cỏ, một sân ga nổi tiếng của thủ đô những năm 70 thế kỷ trước hằng đêm tấp nập những cuộc tiễn đưa:

“ Đêm ca ba đi dọc đường Nam Bộ
Tay vẫy chào những đoàn tầu rời ga Hàng Cỏ
Đưa bộ đội lên đường
Các anh đi suốt ca ba thẳng tới chiến trường…”

Về người ở lại hậu phương:

«Em đi làm trong râm mát hàng cây
Hố cá nhân chở che như tình bạn
Giặc Mỹ rượt theo em bằng bom đạn
Em đi đường bờ sông
Chúng ném bom bờ sông
Em đi đường Phố Huế
Đạn bắn vào Phố Huế
Em vẫn đi ngày bốn buổi chuyên cần...»
(Em vẫn sống như hồi còn mẹ)

Từ chiến trường trở về tôi vẫn giữ được cuốn sổ có chép ba bài thơ: Lời Ru Với Anh, Ca Bình Minh và Em Mơ Có Một Phiên Tòa chép trên báo ND trước đó mấy năm đem đi hỏi bạn bè về tác giả Lý Phương Liên, thấy ai cũng nhìn trước nhìn sau im lặng tảng lờ chẳng dám nhận mình đã đọc thơ Lý Phương Liên, mặc dầu họ đều là những người làm nghề chữ nghĩa, viết lách, thèm thơ như thèm lĩnh tiền nhuận bút, cuốn sổ gạo, ô phiếu thịt...! Mãi đến đầu những năm 1980, trong một lần xếp hàng mua bia hơi ở «chuồng cọp» Trại Găng quãng giữa phố Bạch Mai, gặp một bạn học cũ, anh cho biết chùm thơ ba bài in trên báo ND là do nhà báo Nguyễn Nguyên Bảy đến chơi nhà Lý Phương Liên, thấy em Lý Phương Liên đem cuốn vở học trò định xé ra nhóm bếp. Do tò mò nghề báo, Nguyễn Nguyên Bảy cầm xem thấy trong cuốn vở đó là những bài thơ, anh cầm về đọc thử, thấy hay nên gửi cho báo ND và họ đăng, sau hai người nên vợ nên chồng, rồi những hệ lụy cũng xảy đến với họ, họ phải trải qua những thử thách khắc nghiệt, đắng cay, gia đình họ phiêu dạt đi đâu không rõ... (thông tin trên chính xác bao nhiêu phần trăm tôi chưa kịp hỏi lại nhà thơ Nguyễn Nguyên Bảy).
Khi Lý Phương Liên hào hứng viết những vần thơ tràn trề yêu thương con người bằng một bản ngã trung thực, thành tâm của một tấm lòng nhân ái thuở ban đầu thì được khen nức nở. Nhưng, khi chị chỉ ra cái khối mâu thuẫn hiện tại của xã hội... biết mà không ai dám nói: «Trái đất chúng mình cho đến hôm nay/ Vẫn còn những cuộc đời như nàng chìm nổi/ Thời gian còn nửa ngày là đêm tối/ Còn đồng tiền đổi trắng thay đen/ Còn sắc tài bạc mệnh với hơn ghen/ Còn những Mã Giám Sinh, Hoạn Thư, Hồ Tôn Hiến... » (Trò chuyện với Thúy Kiều) lập tức bị chì chiết là «đâm dao vào lưng chế độ»?! Thật không công bằng chút nào. Chẳng trách nhà văn Nguyễn Khải có lần tâm sự: «Sách tôi in ra hay có chuyện, nhưng bao giờ tôi cũng im lặng. Không cãi. Có lúc một đảng bộ địa phương còn cho tôi là hậu «Nhân văn Giai phẩm», tôi cũng im lặng. Một số bài báo của tôi viết năm 1974 cũng bị xem là xỏ xiên tiêu cực, tôi cũng không lên tiếng...» (Thể thao & văn hóa số 57 (1566) ngày 16 – 7 – 2004).
Trong lúc nâng cốc chúc năm mới, chúc sức khỏe nhau tôi khen cái cơ ngơi «tiền tấn» của gia đình anh. Nguyên Nguyên Bảy rủ rỉ, chẳng biết anh nói thật hay nói cho vui: - «Chính các bạn mới là người sung sướng, còn vợ chồng tôi chả có quê hương gì ráo! » - Và anh giải thích: -«Hà Nội, nơi mình sinh ra thì mình không có nhà, quê cha đất tổ không còn ruộng đất; ở trong Nam thì họ coi mình là dân Bắc Kỳ ngụ cư! Nói chung mình bị cô Hai đẩy ra, anh Cả đẩy vào» - Anh nói với giọng nghèn nghẹn buồn buồn. Lý Phương Liên nghe ông chồng tâm sự với mọi người vậy, chị nhíu mày im lặng. Chắc trong đầu chị đang nảy ra một tứ thơ mới.
Mong rằng sau tập Ca Bình Minh, nữ sỹ sẽ tiếp tục chào bạn thơ Hà Nội, bạn thơ Sài Gòn những sáng tác khác của chị sau «tai nạn» Nghĩ Về Thúy Kiều (Trò Chuyện Với Thúy Kiều) từ 1971 tới nay. Hy vong...

Nguyên tiêu 2011
Hoàng Xuân Họa


CA BÌNH MINH- GIỌNG CA NHÂN ÁI, GIÀU TÍNH TRIẾT LÝ
VÀ MANG
NHIỀU HOÀI NIỆM

Nguyễn Văn Hòa
(Nhân đọc sách thơ Ca bình minh của Lý Phương Liên, Nhà xuất bản Văn học, 2011)

Ca bình minh của thi sĩ Lý Phương Liên là một tập thơ mà nó chất chứa  biết bao tình cảm thiết tha, nồng ấm. Cả tập gồm 46 bài, phần lớn là thơ tự do, chỉ có 14 bài lục bát nhưng tôi đánh giá cao những bài thơ lục bát của chị bởi lối viết uyển chuyển, sáng tạo và có sự cách tân. Dù số lượng thơ lục bát không nhiều nhưng nó làm nên chất đằm thắm, dịu dàng, hồn nhiên, trong sáng của hồn thơ Lý Phương Liên. Việc chị ưu tiên sử dụng thể thơ tự do trong sáng tác của chị cũng có cái lý của nó. Phải chăng Lý Phương Liên chọn thể thơ ấy để dễ bày tỏ tình cảm, cảm xúc, thể hiện một cách tận cùng sâu thẳm mọi cung bậc cảm xúc và mọi ngõ ngách của tâm hồn. Điều đặc biệt ở Ca bình minh, đó là tất cả 46 bài thơ đều được chị viết vào thời điểm những năm của thập niên 60, 70 của thế kỉ XX. Viết ở thời điểm ấy mà chị có những cách tân và sáng tạo trong ý tứ, câu chữ, thể thơ như vậy thì quả là điều đáng được ghi nhận.
Danh hiệu nhà thơ theo đúng nghĩa của nó vô cùng cao sang và đáng trân trọng, càng đáng ghi nhận và tôn vinh hơn nữa nếu họ có những bài thơ để đời sống mãi với thời gian. Lý Phương Liên xứng đáng là nhà thơ theo đúng nghĩa của từ này. Chị đến với thơ khá sớm, ngay từ những năm chị mười tám đôi mươi, chị làm thơ không phải với ý định muốn mình trở thành một nhà thơ tên tuổi, thực thụ mà chị làm thơ để ghi chép lại những cảm xúc, những tiếng lòng, những nỗi niềm gan ruột của cuộc đời mình. Có lẽ vì vậy mà thơ Lý Phương Liên thực sự hay, thực sự có giá trị và sống được trong lòng bạn đọc. Dù rằng tên tuổi của Lý Phương Liên xuất hiện chỉ vài năm rồi đột ngột im hơi lặng tiếng trên thi đàn. Sự im lặng và vắng bóng của một giọng thơ lạ và tài hoa ấy nó càng gây thêm sự tò mò, chú ý của những người yêu thơ và thực sự quan tâm đến thơ suốt hơn 40 năm qua. Thơ chị viết ra là những cảm xúc chân thực, không hề giả tạo, nó cứ dạt dào tuôn chảy theo dòng cảm xúc, nói bằng chính con tim, bằng những gì chân thành và sâu thẳm nhất tận đáy tâm hồn mình chứ không hề có sự đẽo gọt, trau chuốt chữ nghĩa một cách cầu kỳ, giả tạo. Nói thế không có nghĩa là thơ chị không sử dụng ngôn từ độc đáo mà có chỗ chị dùng rất đắc địa. Do vậy, không khó để người đọc tìm ra những bài thơ hay, câu thơ hay, tứ thơ lạ trong tập Ca bình minh. Nhiều bài thơ của chị đã được các chiến sĩ chép vào sổ tay mang ra chiến trường trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước, họ đọc cho nhau nghe với một niềm yêu mến và kính phục. Có thể kể ra một số bài thơ để lại ấn tượng sâu đậm, được nhiều người nhắc đến khi nói về thơ Lý Phương Liên như: Ca bình minh, Trò chuyện với Thúy Kiều, Em mơ có một phiên tòa, Lời ru với anh, Lời ru trong đêm, Chờ anh dưới cột đồng hồ, Xin phép mẹ đi lấy chồng …

Điều đáng quý ở Lý Phương Liên đó là sự khiêm tốn, một sự khiêm tốn đáng kính trọng, dù tên tuổi đã nổi tiếng một thời, thơ chị cũng đã sống được và khẳng định giá trị đích thực của nó với thời gian nhưng chưa bao giờ chị nhận mình là nhà thơ. Chị từng giãi bày: “Lý Phương Liên tôi, cha mẹ mất sớm, thất học, vì thế thơ tôi chỉ là đôi ba hoa cỏ, ghi chép lại chính cuộc đời mình, nào ngờ thành tiếng mõ cầu rung lên hỉ ái, và cũng là sấm sét nộ ố những năm 1970 và dài theo nhiều năm sau đó”. Thi sĩ Lý Phương Liên cũng từng khẳng định: “Thơ tôi chỉ là thơ học trò bình thường, nếu không muốn nói là tầm thường, ăn may là do hoàn cảnh éo le đắng đời nên lấy được nước mắt của người đọc mà thành thơ. Tôi trở nên nổi tiếng có lẽ là cơ may, vậy thôi! Có biết bao nhiêu người tài hoa thời ấy, được học hành bài bản, được đào tạo qua các lớp chuyên môn thì tôi làm sao dám sánh với họ”. Con đường đến với thơ của chị như một cơ duyên, chị mượn thơ để nói lên tấm chân tình của mình, lấy thơ để ghi lại những gì xảy ra trong cuộc sống của chính mình, quanh mình và của thời đại mình. Cũng chính vì thơ, yêu thơ mà người thi sĩ họ Lý kia phải chịu bao hệ lụy đáng tiếc. Tai nạn nghề nghiệp là cái rủi cho thi sĩ Lý Phương Liên và gia đình chị nhưng cũng là cái may cho nền văn học nước nhà. Vì có được thêm một giọng thơ lạ và độc đáo.
Có thể nói rằng, chị đã quá may mắn khi được gặp Nguyễn Nguyễn Bảy và hạnh phúc khi phu-thê cùng Nguyễn Nguyên Bảy. Đời thơ, đời người với bao thăng trầm, bao dâu bể, lên thác xuống ghềnh của Lý Phương Liên đều liên quan và gắn liền với Nguyễn Nguyên Bảy. Có lẽ vì thế mà chị có rất nhiều bài thơ viết về “anh”, nhắc đến “anh” với một niềm kính trọng và yêu thương da diết (trong tập thơ Ca bình minh có khoảng 2/3 số bài thơ chị viết về Nguyễn Nguyên Bảy). Cho nên chị có ước muốn: Em muốn anh như bàn tay/ Xòe ra là gặp. Dù có đi đâu, làm gì, hình ảnh của “anh” vẫn luôn hiện hữu, vẫn luôn thường trực trong trái tim của chị. Để rồi có lúc chị phải thốt lên: Xa anh nói nhớ làm sao/ Chân đứng tổ kiến lòng chao gió cành/ Lẽ nào em buộc cánh anh/ Buộc cánh anh/ Buộc cánh anh cũng chẳng thành tình yêu.
Có đau khổ, mất mát nào lớn hơn khi mà mình không còn bố, không còn mẹ? Càng hụt hẫng và đau đớn gấp bội phần khi bố mẹ mình mất trong thảm cảnh? Chị đã phải gánh chịu liên tiếp những nỗi đau chồng chất. Chị không những đau nỗi đau riêng của gia đình mình mà còn thêm nỗi đau cho đất nước, cho nhân dân; nỗi đau của một người dân sống trong cảnh chiến tranh tang tóc:

Tôi sinh ra giữa cơn lốc xoáy tròn đất nước
Một nghìn chín trăm năm mươi
Cả dân tộc đổ xuống đầu giặc Pháp
Cơn phẫn nộ muốn làm người
Gian nan chỉ thấy môi cười
Bao máu đỏ nhuộm nên cờ chiến thắng
Hai mươi năm không ai ngồi đếm ngày đếm tháng
Những ngày sáu chín bảy mươi
Chẳng có nơi đâu tuyệt diệu con người
Vai gánh nặng cuộc chiến tranh hủy diệt
Mỗi người dân đều nhận phần mất mát
Chia đều nhau bom đạn với cơm ăn
Khổ chẳng riêng ai nên khổ chẳng một mình
Chung số phận với nhân dân mà chiến đấu
Thúy Kiều ơi, thời tôi sống biết bao người đổ máu
(Trò chuyện với Thúy Kiều)

Đất nước những năm chiến tranh đã đặt ra cho con người không ít những thử thách, đặc biệt là trong việc chọn lựa lẽ sống: Em tuổi hai mươi như tất cả mọi người/ Chọn số phận ở thời mình đang sống.
Hoàn cảnh lịch sử không cho phép con người ngủ yên trong đời chật mà phải ra đi theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc và nơi họ gặp nhau không đâu khác chính là nơi chiến trường. Họ ra đi vì nghĩa lớn nên có cùng chung một mục đích, một lý tưởng, một con đường, một niềm tin vào tương lai là đất nước sẽ được giải phóng, nhân dân sẽ được sống trong hòa bình: Đất nước chiến tranh nhân dân còn cơ cực/ Khi cái chết vãi từ trên phản lực/ Bom chùm bom lửa bom bi …/ Đời còn nhiều gian khổ phải qua/ Để đến được mùa hoa sai quả trĩu/ Cơ thể của nhân dân cơ hàn đang phải chịu/ Số phận mình là số phận của nhân dân.
Hiện thực đau thương trở thành động lực sống và khát khao về một thế giới hòa bình, đất nước độc lập, nhân dân hạnh phúc là động lực để họ vượt qua mọi nhọc nhằn, khó khăn của cuộc sống: Đường ra biển có thể dài năm tháng/ Mất mát nhiều hơn gian khổ cũng nhiều hơn/ Nhưng một điều chắc chắn phi thường/ Chúng tôi sẽ lên bờ vào một ngày nắng đẹp (Trò chuyện với Thúy Kiều).
Đế quốc Mỹ- kẻ cướp nước, làm những điều phi nghĩa, trái với lương tâm đạo lý nên chắc chắn sẽ thất bại. Chân lý thuộc về lẽ phải, chính nghĩa sẽ thuộc về ta. Cái chết bi thảm của người mẹ Lý Phương Liên và 50 con người xấu số khác vào một buổi chiều định mệnh (Trong một chuyến đò ngang trên con sông Hồng trong một trận bom Mỹ đánh phá cầu Long Biên vào năm 1966) là một minh chứng cho tội ác tày trời của đế quốc Mỹ. Trước tội ác của giặc, chị lại có ước mơ là sẽ có một phiên tòa mở ngay trong nhà chị để kết tội kẻ gây ra bao tội ác. Để chúng hiểu rằng gia đình chị và biết bao nhiêu gia đình khác trên nước Việt Nam này đã và đang gánh chịu không biết bao nhiêu nỗi đau do chúng gây ra. “Em mơ có một phiên tòa” là một bài thơ đã làm lay động không biết bao nhiêu con tim, đặt ra bao điều nhức nhối về lẽ sống, về lương tri, giá trị nhân bản của con người và thời đại:
Bom và súng/ Giết một dòng sông/ Giết một con đò/ Có mẹ em và năm mươi cuộc sống./Bom và súng/ Ai dạy mi giết người?/ Bầy giặc lái cúi đầu im lặng/ Có khác chăng sông Hồng/ Dòng PôtôMác nước xanh/ Nước xanh nước hồng đâu cũng nước dòng sông/ Nếu bom đạn Việt Nam đổ xuống dòng Pô Tô Mác?/ Em trừng mắt nhìn lũ người làm giặc/ Chúng im lặng cúi đầu… / Chúng bắn dòng sông Hồng/ Ta không bắn dòng sông PôtôMác/ Chúng đốt nhà ta/ Ta không đốt những vườn nho của chúng/ Chúng giết mẹ ta/ Ta không giết mẹ chúng/ Chúng đến Tổ quốc ta/ Việt Nam/ Ta không sang/ Nước Mỹ/ Không phải dài lời về chân lý/ Súng và bom/ Bom và súng/ Chúng giết ta/ Thì ta tiêu diệt chúng…
Nhà thơ Hoàng Xuân Họa nhớ lại: “Hồi đó ở một cánh rừng già biên giới miền Trung đầy bom đạn, cánh lính trẻ chúng tôi chụm đầu đọc cho nhau nghe bài thơ trên. Nghe xong cả tiểu đội giàn giụa nước mắt, chẳng ai bảo ai, tất cả đều phẫn uất cầm lấy súng hướng lên chốt giặc”.
Dù phải gánh chịu bao nỗi đau, nhưng những điều đó không làm cho chị gục ngã, chị vẫn sống, vẫn cố gắng vươn lên, hướng đến một ngày mai, một tương lai tươi sáng: Tôi cứ đi chuyên cần bền bỉ/ Trông xa về phía trời hồng.
Trong những lúc đi làm ca ba tại nhà máy điện Hà Nội, Lý Phương Liên vẫn hăng say, nồng nhiệt, vui vẻ và gọi ca ba đó là ca bình minh:
Em đi làm ca ba/ Đêm buông dày đường phố/ Hà Nội vào giấc say trẻ nhỏ/ Em đi giữa lòng đường/ Hát khẽ …/ Tuổi ca ba rất trẻ/ Đêm ca ba lại dài/ Mười tám, đôi mươi/ Tuổi như em khỏe ăn khỏe ngủ/ Bạn bè em có nhiều ý lạ/ Khi nói tới ca ba/ Ca của những đêm hè trời đầy sao hoa/ Ca của những đêm đông bập bùng ánh lửa/ Còn em với niềm vui bé nhỏ/ Em gọi ca ba là ca bình minh (Ca bình minh).
Từ lời ru của mẹ thuở nào gợi lên trong chị bao suy ngẫm về cuộc đời, về những tháng ngày khó khăn cơ cực, về những hụt hẫng, niềm đau xót đến tận cùng gan ruột. Để rồi có lúc chị lại tự vấn bằng những lời nghe ai oán, não ruột làm sao: Có lẽ nào những lời ru của mẹ/ Hóa những lời tiên tri/ Cò cha cò mẹ bay đi/ Cò con côi cút lấy gì nuôi nhau… Bằng cách nói ẩn dụ : “cò cha”, “cò mẹ”, “cò con” gợi lên cho người đọc bao thương cảm, xót xa.
Mới tám tuổi đầu/ Cha mất/ Mẹ lặn lội thân cò phố chợ bến sông…(Từ lời ru của mẹ).
Bằng nghị lực, niềm tin, sự yêu thương đùm bọc của bà con hàng xóm- đặc biệt là “những bà mẹ láng giềng”, đã giúp chị và gia đình chị vượt qua thảm cảnh: Nào ngờ thuyền chúng con bị cuốn vào bão lớn/ Năm chị em ôm nhau/ Mẹ mất/ Lời tiên tri đúng thật/ Con là cây buồm mười tám tuổi chông chiêng/ Ôm chúng con là những bà mẹ láng giềng/ Rá gạo mớ rau/ củi lửa/ Con thuyền xô nghiêng, con thuyền xô ngửa/ Cả xóm chung tay không để thuyền chìm... (Từ lời ru của mẹ).
Từ cuộc đời với những tháng ngày nếm trải bao tủi hờn, cơ cực- Lý Phương Liên nghiệm ra rằng:

Cái nghèo chẳng dễ hiểu đâu
Xa sâu như tiếng đàn bầu trong khuya
Linh thiêng lời mẹ dặn dò
Kiếp người là một gánh lo hãi hùng

Tình yêu mà chị dành cho người yêu của mình cũng có nhiều điều đặc biệt, thể hiện sự bao dung, nhân ái, hiếm có của một người đang yêu. Tâm lý thường tình của những người con gái đang yêu khi hẹn hò, chờ đợi người tình của mình đến nếu không đúng giờ thì hay dỗi hờn, trách móc; thậm chí còn có những lời lẽ không hay, xúc phạm đến người yêu. Với chị, chị có một thái độ bao dung hiếm có. Lý Phương Liên tin rằng “anh” sẽ không lỡ hẹn, và nếu có lỡ hẹn đi chăng nữa âu đó cũng là chuyện bất đắc dĩ mà thôi. Biết vậy nên chị đã cố gắng và kiên trì đợi chờ “anh” mãi  … Điệp khúc “Anh không nhỡ hẹn bao giờ” trong bài “Chờ anh dưới cột đồng hồ” được lặp lại 4 lần, đã cho thấy sự tin tưởng tuyệt đối và lòng vị tha của chị .
Anh không nhỡ hẹn bao giờ/ Chẳng giận anh đâu/ Chỉ muốn vặn lại kim đồng hồ (Kim ngắn chỉ vào số bảy/ Kim dài chỉ số mười hai …)/ Để anh khỏi áy náy/ Để anh khỏi xin lỗi em (Chờ anh dưới cột đồng hồ).
Có lắm lúc, chị thật hồn nhiên trong tình yêu. Cách yêu của chị cũng khiêm tốn, chậm rãi, không phải vội vàng, hời hợt. Lời lẽ dịu dàng, nhẹ nhàng, đằm thắm và sâu sắc lắm: Anh hay bỏ quên đồ đạc/ Em muốn khuyên anh/ Em lại muốn khuyên anh/ Đừng bỏ cơm nhỡ bữa/ Ăn vội mẫu bánh mì quanh phố/ Em lại muốn khuyên anh/ Trà chén năm xu đừng nghiện/ Chuyện ngồi lê đôi mách đừng nghe/ Em lại muốn khuyên anh ngủ sớm/ Đêm đông đừng lấy rượu làm bạn/ Đêm hè đừng đốt thuốc tàn canh... (Bài thơ về những điều khó nói). Nhưng cũng có lúc tình yêu và nỗi nhớ trong chị trào dâng một cách nồng nàn, mãnh liệt: Biết anh vắng nhà/ Sao em vẫn đến/ Bởi trong lòng em/ Lửa nhớ đã chín/ Biết anh vắng nhà/ Sao em vẫn đến/ Tình chẳng muốn xa/ Nên lòng cứ hẹn … (Hẹn).

Lòng em như bãi cỏ khô
Tình anh gieo lửa đốt cho mỡ màu
Và từ ngày ấy yêu nhau
Cây đời đã nẩy lộc đầu non xanh
(Bài lục bát nháp dưới lá thư anh)

Lòng em như cốc nước đầy
Cốc nước đầy để trên bàn nhỏ
Cuộc địa chấn yêu rung từng nhịp thở
Sóng sánh nước tràn ra
…………………………
Anh ùa vào đời em như gió như hoa
Như cánh buồm nâu ùa ra cửa biển
Ngoài cửa sổ đôi cánh chim chao liệng
Trên bàn yêu một đĩa sấu chín vàng
(Đôi ta)

Biết bao gánh nặng áo cơm đè lên đôi vai gầy của Lý Phương Liên, một người con gái mà cả tuổi thơ phải gánh chịu bao nhọc nhằn, cay đắng. Sinh ra trong gia đình đông em và trong thời buổi loạn lạc, bố mẹ lại mất sớm. Cứ nghĩ rằng người con gái chân yếu tay mềm ấy sẽ khó vượt qua. Nhưng với nghị lực phi thường, tình thương và niềm tin đã giúp chị vượt qua mọi thách thức, mọi khắc nghiệt của cuộc đời.
Sông Hồng là đối tượng mà chị cũng thường hay nhắc đến. Có lẽ chính con sông này đã gắn với bao ký ức niềm thương, nó cũng là chứng nhân lịch sử, nó cũng bao dung, nhân hậu, cũng đau đớn trước cảnh tan tác đau thương. Bằng cách dùng thủ pháp nhân hóa, Lý Phương Liên đã cho người đọc thấy rõ điều này:
Chào sông Hồng/ Sao mỗi lần gặp em mặt sông rầu rĩ thế?/ Em hát cho sông nghe lời ru của mẹ/Dẫu gian khổ mấy đừng buồn …/ Sông Hồng ơi cái nắng buổi mai
………………………
Em yêu con sông bởi lẽ chân thành/ Sông là bạn của mẹ em sớm khuya vất vả/ Mẹ thường kể: sáng nay sông êm ả/ Chiều qua sông giận dữ ầm ào …/ Mẹ sang sông về sông không bỏ buổi làm nào/ Sông thương mẹ vẫn cặp đò đúng bến.
Thế rồi một buổi chiều định mệnh, cũng chính từ nơi con sông Hồng phù sa đỏ nặng ấy, mẹ chị lại vĩnh viễn ra đi:
Một buổi chiều sắc tím/ Buổi chiều này có thật hay không?
Cái chết thảm khốc của người mẹ là một sự mất mát quá lớn lao và đột ngột nên chị nấc nghẹn trong một câu hỏi đầy nghẹn ngào:

Buổi chiều này có thật hay không?
Mẹ trôi sông
Gió khản hơi đuổi hoài bóng mẹ …
Những quả bom giặc Mỹ
Để lại cho đời bao trẻ mồ côi
Sông Hồng ơi! Sông Hồng ơi!
Khóc lóc bao nhiêu cũng chỉ là nước mắt
Phù sa đỏ hãy vì đời bồi đắp
Mẹ hồi sinh trong cuộc sống mỡ màu
Qua mất mát này chúng ta thêm yêu nhau …

Lý Phương Liên tin tưởng và hy vọng rằng: “Mẹ sẽ hồi sinh”, mẹ sẽ sống, mẹ sẽ luôn dõi theo từng bước trưởng thành của chị và các em của chị.
Những triết lý về cuộc đời, về lẽ sinh tử, mất còn được nhà thơ nói đến một cách sâu sắc. Chị nghiệm ra rằng: Khóc lóc bao nhiêu cũng chỉ là nước mắt. Cái quan trọng nhất bây giờ là phải sống, phải sống sao cho đúng nghĩa, sống sao cho thực sự giá trị người. Chị đã ý thức như vậy nên khi bố mẹ không còn trên cõi đời này nữa, cô gái trẻ Lý Phương Liên vẫn nhớ như in những lời mẹ dặn, về niềm tin và lẽ sống: Đời con còn đó mai sau/ Sống là điều mẹ nguyện cầu cho con; Em đón nhận đời em sau một thoáng hãi hùng/ Chôn mẹ nuôi đàn em thơ dại/ An phận ư? Mơ hồ sợ hãi/ Sống vẫn là lời mẹ dặn thiêng liêng (Trò chuyện với Thúy Kiều).
Ngày người em trai duy nhất lên đường ra mặt trận, để động viện, tiếp thêm sức mạnh, ý chí và niềm tin cho em, Lý Phương Liên  đã dặn dò em trai của mình bằng những lời lẽ cảm động, sâu sắc và mang nhiều ý nghĩa: Nhà ta có mình em ra trận/ Chị nhắc lại điều này vì chị muốn như em/ Thành tầm bay của những mũi tên/ Nhưng chị đã thành trụ cột gia đình ta mồ côi cha mẹ/ Em hãy coi chị như người chiến sĩ/ Dù gia đình ta mình em được lên đường…
Lý Phương Liên dặn em trai rằng: Em sẽ lên đường và chiến đấu, vì mẹ vẫn luôn ở bên em, mẹ cũng sẽ “về” để đưa em lên đường ra mặt trận. Em có nghe hình như đâu đây vẫn còn những tiếng kêu thương thảm thiết của mẹ dưới làn bom của Mỹ?
Hãy lên đường em nhé/ Yên tâm/ Đành là chị ở nhà phải gánh phần vất vả/ Nhưng vất vả nhất là nơi bom lửa/ Nơi ngày mai em tới đạn lên nòng…/ Hãy hoàn thiện đàn ông bằng đời chiến sĩ/ Và nhất định phải trở về… (Dặn em trai).
Cái đáng yêu của Ca bình minh là những cảm xúc tinh tế, nhẹ nhàng, nhiệt thành mà hồn hậu, những ký ức tuổi thơ, tình cảm với quê hương, người thân, những người ở nơi xóm nhỏ, anh thợ kính, chị tráng bánh đa nem, bà bán cau, bác thợ điện… lần lượt ùa về, gợi lên cho người đọc bao nỗi niềm ray rứt.
Chị viết về người cha đã khuất của mình bằng những lời thơ tha thiết, nằng nặng nỗi niềm thương nhớ; hình ảnh người cha như ẩn hiện đâu đây: “Con nhớ dáng ngồi lặng lẽ của cha”, “Khi mắc dây cha thường huýt sáo”, “Bàn tay cha săn như gọng kìm”… Cha của chị dù ra đi đã lâu nhưng bà con vẫn còn nhắc hỏi, bởi vì: Cha em là công nhân sở điện Bờ Hồ/ Điện là bạn của người dân Hà Nội/ Nên cha em vắng lâu rồi bà con còn nhắc hỏi (Về người cha đã khuất).
Nghệ thuật cũng là một cách lý giải cuộc sống. Thay vì dùng một chuỗi luận lý để tìm cách chứng minh, thuyết phục. Lý Phương Liên đã dùng những từ ngữ, lời lẽ, hình ảnh, cảm xúc chân thành, giản dị từ chính trái tim mình- giống như lời trò chuyện, lời thủ thỉ, giãi bày mọi ngõ ngách tâm hồn mình. Vì thế mà thơ chị việc dùng điệp từ, điệp ngữ lặp đi lặp lại với tần số cao và hầu như bài nào cũng có. Phải chăng đó là một trong những nét riêng của thơ Lý Phương Liên và đó là sự thành công của chị trong việc tạo ra những vần thơ êm ái dễ đi vào lòng người, tăng sức biểu hiện, tăng nhạc tính của câu thơ. Nghệ thuật điệp có tác dụng nhấn mạnh ý, vừa tạo ra những điệp khúc độc đáo: Nuôi con suốt đời là dòng máu đỏ/ Gia tài của mẹ của cha/ Nuôi con suốt đời là dòng sữa mẹ/ Con đi hết đường xa …/ Dòng máu đỏ của mẹ cha/ Không phải là sắc màu tưởng tượng/ Không phải là thứ gì dễ trộn/ Chắt từ sắc đỏ của dòng sông/ Từ vị ngọt của lúa thơm/ Từ hương mát của hoa trái/ Từ sức gió chạy trên đồng hoang dại/ Từ bong bóng mưa tháng năm (Cội nguồn).
Cảm thức thời gian cứ trôi chảy cùng cảm thức về đời người, những hoài niệm về quá khứ đã trở thành nỗi khắc khoải, lo âu và cả sự đau đớn, nghẹn ngào: Lịch sử đã bao lần lặp lại/ Một dòng sông xâm lược một dòng sông/ Sông trời thác dữ mênh mông/ Sông quê em ngược lên chống giặc (Viết cho sông Kỳ Cùng).
Trong những bài thơ đặc sắc của Lý Phương Liên, chị đã có những suy nghĩ, khái quát có tầm triết lý về số phận con người, về quá khứ, hiện tại, về sự sống và cái chết, về vẻ đẹp của thời đại và con người Việt Nam.
Bên cạnh những thành công, Ca bình minh của Lý Phương Liên cũng có những điểm hạn chế nhất định. Vì viết theo mạch cảm xúc, lời thơ giống như lời trò chuyện, lời nói hằng ngày nên ở một vài bài chị còn kể lể dài dòng, từ ngữ không được đẽo gọt nên dễ gây cảm giác nhàm chán đối với người đọc.
Đời thơ của chị phải trải qua sóng gió, sau sự kiện bài thơ Nghĩ về Thúy Kiều (sau này đổi tên là Trò chuyện với Thúy Kiều) đăng trên Báo Văn nghệ năm 1970, chị bị phạt “lên ruộng,xuống bờ”. Thế là hồn thơ tài năng Lý Phương Liên từ đó bỗng dưng biến mất. Gia đình chị phải chịu bao hệ lụy vì nó. Cũng chính từ đó chị có lời nguyền không làm thơ, không công bố thơ, thậm chí cả những người thân yêu nhất như Nguyễn Nguyên Bảy- chồng chị, chị cũng chẳng dám đưa thơ mà đọc. Dù trong tâm can, huyết mạch chị thơ vẫn âm ỉ và dạt dào tuôn chảy:

Thỉnh thoảng buồn em vẫn ghi thơ
Trôi trên giấy điệu vần thương nhớ
Ạ ơi những lời ru cũ
Cánh cò chít trắng tang mây …
Chẳng dám chép tặng anh sợ rồi lại vạ
Thơ thương ta thơ đừng làm anh khổ
Em đơn chiếc một cánh cò
Mà trời bao la quá
Em chép lại đôi ba bài thơ nhỏ
Chỉ để nhớ để thương thơ …

Thật đáng tiếc cho hồn thơ tài năng Lý Phương Liên đã không gặp thời, để rồi lại phải im lặng trong suốt hơn 40 năm qua. Điều đáng mừng là qua sự sàng lọc, kiểm chứng của thời gian những gì thuộc về giá trị đích thực của văn chương đã được thừa nhận và trả về vị trí xứng đáng của nó. Ca bình minh ra đời năm 2011 không chỉ là niềm vui riêng của Lý Phương Liên và gia đình chị mà đó còn là niềm vui cho những người yêu thơ chân chính nước nhà.
Một ngày mùa thu tháng tám năm 2012, tôi có dịp ghé thăm nhà người em gái thứ tư của chị, tại số 1 Quán Thánh, Quận Ba Đình, Hà Nội. Tôi mới hiểu và biết nhiều điều hơn về Lý Phương Liên. Em gái của chị kể trong lời nghẹn ngào, xúc động về người chị gái thân yêu của mình. Tôi cũng được trực tiếp xem bức ảnh mà gia đình chị đã vinh dự chụp chung với Bác Hồ, khi Bác về thăm gia đình  Lý Phương Liên vào 19h tối 30 Tết Nhâm Dần - 1962.
Thời gian đã qua đi, cô gái trẻ Lý Phương Liên thuở nào giờ đây mái tóc đã nửa xanh nửa bạc, và dù đã xuất hiện những nếp nhăn, nhưng trên gương mặt chị vẫn mang nét thanh tú, lịch lãm của một người con đất Hà thành. Dù đã xa Hà Nội mấy chục năm nhưng trong tâm can chị vẫn nhớ về nơi đất Bắc, nơi gắn với bao ký ức, niềm thương và cả những nỗi đau xót đến tận cùng.
Ca bình minh được in vào năm 2011 cũng là dịp để Lý Phương Liên trở lại với thơ, trả ơn những nguời yêu mến thơ chị một thời và đó cũng là dịp chị được thăm lại những người bạn vong niên; được gặp gỡ, được trao đổi, thông tin với những người đã từng yêu mến thơ mình trên khắp mọi miền Tổ quốc. Ca bình minh của Lý Phương Liên, Nhà xuất bản Văn học ấn hành năm 2011 thực sự là một tập thơ mang nhiều ý nghĩa và có giá trị đặc biệt.

Nguyễn Văn Hòa.





NHÌN LẠi “HIỆN TƯỢNG LÝ PHƯƠNG LIÊN”
 CỦA 40 NĂM TRƯỚC





Nguyễn Anh Tuấn



Tôi sẽ không gọi Lý Phương Liên là nhà thơ – mặc dù chị xứng đáng và cần được gọi như vậy, nhất là khi danh xưng “nhà thơ” đang bị lạm dụng. Tôi cũng sẽ không dám nói nhiều tới nội dung – nghệ thuật những sáng tác thơ ca của chị, vì “Sau biết bao chìm nổi, nương dìu nhau mà sống, 40 năm sau, tập thơ “Ca bình minh” của Lý Phương Liên và tập “Thơ Nguyễn Nguyên Bảy” ra mắt bạn đọc”, đã có nhiều người viết làm công việc đó một cách công tâm, sòng phẳng. Với tư cách là một người yêu thơ, và là một người bạn vong niên rất lâu của chị, nhân Hội nghị viết văn trẻ toàn quốc lần thứ VIII đang diễn ra, tôi chỉ muốn nhìn lại đôi chút về “Hiện tượng Lý Phương Liên” sau một quãng thời gian đủ hình thành dăm bảy thế hệ người viết…


Vào đầu thập niên 70 thế kỷ trước, khi những bài thơ của cô thợ máy Lý Phương Liên xuất hiện đã gây ra những “cơn sốt” trong dư luận. Hồi đó, những người ở lứa tuổi đôi mươi hình như cùng sống trong một “bầu khí quyển” tinh thần đặc biệt của xã hội, đều có thể rung động trước những câu thơ “chói ngời sắc đỏ” của Nguyễn Mỹ hoặc “nhuộm mầu thu vui” xanh rượi tình yêu thương của Lý Phương Liên – nói chung là chúng chẳng khác nhau là mấy, hoặc chỉ là những biểu hiện khác nhau của một tâm trạng chung: cùng một niềm tin yêu rộng mở, cùng một suy nghĩ nghiêm trang, cùng một niềm đắm say ngây ngất trong một hoàn cảnh lịch sử đòi hỏi phải dâng hiến tất cả cho Tổ quốc và Dân tộc đang đứng trước thử thách hiểm nghèo… Chị không phải là một nhà thơ theo nghĩa thông thường. Có thể nói chị là một hiện tượng văn chương, hơn thế,  một hiện tượng tâm lý xã hội, một ánh xạ của tinh thần thời đại, một tiếng vọng chân thực của tinh thần đông đảo lớp trẻ hồn nhiên, hăng hái, say đắm lý tưởng. Cứ mỗi lần đọc lại thơ Lý Phương Liên, những ai có chút tâm hồn lãng mạn thời ấy ( mà ta quen dùng đến nhàm và có phần thái quá là “lãng mạn cách mạng”) đều có thể cảm nhận được cái men sống kỳ lạ ; không ít người đã nâng niu chút men ấy, cái hương vị ấy của tình người để mà sống qua những chặng đời gian nan – dù ở khói lửa chiến trường hay trong chốn sương mù tịch mịch, tất cả đều gìn giữ cái “màu hoa chuối đỏ tươi” (Nguyễn Mỹ) và những “đêm hè trời đầy sao hoa” tận đáy hồn…



Thơ Lý Phương Liên kể về ngôi nhà của chị giống như một “Cái lò tổ ấm năm chị em”, về bảy gia đình trong “Xóm nhỏ”, về “Chị hàng xóm làm nghề tráng bánh đa nem”, về một lần “Chờ anh dưới cột đồng hồ”, về chuyện “Thắp hương”, về Hà Nội “Sau cơn mưa”, v.v. Tất cả đều giản dị, với “tính chân thực của ngôn ngữ”- song điều quan trọng hơn cả là chúng đã vươn tới “tính chân thực của thông báo” trong “quá trình tìm kiếm chân lý của nghệ thuật” – như nhà lý luận văn học Nga kiệt xuất Iuri Lotman từng đòi hỏi.(1) Cũng chính “tính chân thực của thông báo” đó cùng dấu ấn tâm hồn riêng biệt của Lý Phương Liên đã là cái giúp cho thơ chị vượt thời gian.


Lý Phương Liên hồn hậu làm thơ, như đã hồn hậu sống, hồn hậu tin tưởng, hồn hậu vượt lên trên mọi bất hạnh của số phận rơi xuống gia đình nhỏ bé của chị mà chị đã tình nguyện gắn nó vào số phận chung của cả dân tộc một cách đầy ý thức. Chị hồn nhiên kể hết những khổ nghèo, thiếu thốn, đắng cay, không hề thi vị hóa chúng. Ai cũng có thể soi mình trong đó, để tìm sự an ủi, sự cảm thông, một chỗ vịn tinh thần tình cảm để cùng vượt qua bao nỗi cam go:



Cái nghèo chẳng dễ hiểu đâu
Xa sâu như tiếng đàn bầu trong khuya
Linh thiêng lời mẹ dăn dò
Kiếp người là một gánh lo hãi hùng…



Điều gì đã cho chị thổi được vào sự sống cái tình yêu run rẩy với những hình ảnh đơn sơ, quen thuộc thế này:



Từ vị ngọt của lúa thơm
Từ hương mát của hoa trái
Từ sức gió chạy trên đồng hoang dại
Từ bong bóng mưa tháng năm…
…Chân mang gió qua núi
Cánh cò cô đơn, cánh cò lặn lội
Góa chồng nuôi con
Câu ca dao xôn xao trời đêm
Và tiếng hát
Xôn xao những cánh đời đói khát





Chị giải thích đó là do “Cội nguồn”- như tên của bài thơ, và đó cũng là cội nguồn sâu xa của một vệt Thơ chắt ra từ suy nghĩ xoáy lòng, từ dự cảm trước những điều bất công ngang trái, từ tinh thần dũng cảm sống không đầu hàng số phận của “tuổi hai mươi không tin vào định mệnh”, đồng thời không lúc nào rời xa yêu thương hồn hậu:



Không có con đường nào toàn bóng mát và hoa
Không có vùng trời nào toàn chim hót
Không có cây khế vàng trong cổ tích
Kho báu cũng không, dù có mật khẩu vừng…
Em đón nhận đời em sau một thoáng hãi hùng
Chôn mẹ, nuôi đàn em thơ dại
An phận ư? Mơ hồ sợ hãi
Sống vẫn là lời mẹ dặn thiêng liêng…



Thế là đã rõ: có tin yêu hồn hậu thì mới có tâm trạng ngơ ngác, sự thất vọng chua xót, nỗi đau đớn tận cùng, rồi từ đó mới có lòng dũng cảm để sống, để vượt lên mọi thử thách và để khẳng định bằng câu hỏi: “Có gì đẹp hơn tình yêu không anh?” Nhưng cũng chính từ tận đáy của niềm tin yêu trong trẻo, Lý Phương Liên đã có những suy ngẫm đích thực và xoáy sâu về thân phận con người, về trách nhiệm sống thực sự của con người trong cộng đồng xã hội, khi mà “Số phận mình là số phận của nhân dân”. Và đó cũng là một nội dung tư tưởng quan trọng trong bài thơ dài “Nghĩ về Thúy Kiều”- khi in sách đổi thành “Trò chuyện với Thúy Kiều” mà nhà văn Triệu Xuân cho rằng “là một trong những bài thơ hay nhất của cuộc đời thơ Lý Phương Liên, nó là “đỉnh” của chị.”. Những người nỡ “đánh” tàn tệ bài thơ “Nghĩ về Thúy Kiều” lúc ấy đâu có hiểu rằng: “đánh” nó tức là cũng vô tình “đánh” vào sự hồn hậu đáng yêu kia. Nàng Kiều của thi hào Nguyễn Du cũng hồn hậu tin đời, tin người đấy thôi, và nếu có lúc nào đấy nàng nhận ra sự bội phản, hiểu rõ sự bất trắc thì cũng chủ yếu là do tình yêu thương hồn hậu tận trong bản năng mách bảo. Lý Phương Liên, một cô gái 20 tuổi đã đồng cảm với nàng Kiều, và đã cố gắng thâm nhập vào chiều sâu trái tim người nghệ sĩ vĩ đại – nơi đã tìm ra những bí mật khuất lấp, những thế lực đen tối giật giây số phận con người vô tội. Trong “dàn đồng ca quan họ” văn chương (chữ của Nguyễn Nguyên Bảy) lúc đó, tiếng thơ của Lý Phương Liên vút lên trở thành một trong những giọng ca chủ đạo, trở thành một trong những “liền chị” có uy tín nhất, được nhiều người quý mến hơn cả, bởi hơn ai hết, chị đã nói ra được cái không khí tinh thần chung, lý giải cái điều mà nhà thơ Hoàng Xuân Họa đã chân thành kể lại: “… thơ chị đã làm rung động cảm xúc mấy thế hệ bạn đọc ngày ấy. Những người hôm nay tuổi từ 60 – 80 từng là nhà giáo, sinh viên, bộ đội, công nhân thời đó hầu như đều đọc, thuộc bài Ca Bình Minh, Lời Ru Với Anh, Ngã Ba… trong lúc cuộc sống thời chiến chẳng dư dả gì, lấy thơ nâng đỡ tinh thần để làm việc và chiến đấu… Từ chiến trường trở về tôi vẫn giữ được cuốn sổ có chép ba bài thơ: Lời Ru Với Anh, Ca Bình Minh và Em Mơ Có Một Phiên Tòa chép trên báo Nhân dân trước đó mấy năm, đem đi hỏi bạn bè về tác giả Lý Phương Liên, thấy ai cũng nhìn trước nhìn sau im lặng tảng lờ chẳng dám nhận mình đã đọc thơ Lý Phương Liên, mặc dầu họ đều là những người làm nghề chữ nghĩa, viết lách, thèm thơ như thèm lĩnh tiền nhuận bút, cuốn sổ gạo, ô phiếu thịt!”. Vậy mà thơ Lý Phương Liên đã không hề có “những trận bạo động chữ” nào – theo cách nói của nhà văn Văn Giá, cũng không hề có cái chuyện thường ngày bây giờ của một số người viết trẻ là “nặng tiếp thị, “nổ”, PR quá đà thành gian dối gây thất vọng.”. Thơ Lý Phương Liên có thể là một minh chứng sáng rõ nhất cho cái đòi hỏi này của nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên: “Văn học nói chung, văn học trẻ nói riêng, không thể là một thứ viễn mơ, xa rời và thờ ơ với số phận nhân dân, dân tộc”


Để có thể khẳng định thêm về ảnh hưởng của “hiện tượng Lý Phương Liên” đối với đời sống xã hội nói chung, đời sống văn học nói riêng, tôi cho rằng cần nhắc đến một luận điểm trong tiểu luận đặc sắc:” Quan niệm về thơ ca trong thơ Pushkin” của triết gia Nga Vladimir Soloviev mà những người viết trẻ hôm nay cũng có thể rút ra được những điều quý giá cho bản thân: “Thơ ca có thể và phải phục vụ cho cơ đồ của cái chân và cái thiện trên thế gian – nhưng chỉ bằng phương cách của mình, chỉ bằng vẻ đẹp của mình và không bằng một cái gì khác… Tất cả những gì có chất thơ – có nghĩa là tất cả những gì đẹp – sẽ bằng cách ấy dồi dào nội dung và hữu ích theo nghĩa tốt nhất của từ ấy”. (2) Và cũng chính V. Soloviev đã viết về tình yêu dân tộc và đất nước trong tác phẩm của thi hào Ba Lan A. Mickiewicz như một lời kêu gọi thấm thía đối với mỗi người cầm bút Việt Nam hiện tại: “Cả ở đây trong sức mạnh đặc biệt của tình cảm có sự dự liệu một chân lý vĩ đại, nó nói rằng dân tộc cũng như ngã thể con người có sứ mệnh vĩnh hằng và tuyệt đối, và phải trở thành một trong những hình thức trường cửu, có giá trị tự thân và không thể thay thế… cần làm sao cho thể trần thuật của tình cảm ái quốc: “tôi yêu nước” chuyển thành thể mệnh lệnh: “hãy giúp đất nước ý thức được và thực hiện được nhiệm vụ cao nhất của nó”… (3)


_________________________
1. Cấu trúc văn bản nghệ thuật – Trần Ngọc Vương, Trịnh Bá Đĩnh, Nguyễn Thu Thủy dịch, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 2004, tr.38.


2,3. Siêu lý tình yêu. Những tác phẩm triết- mỹ chọn lọc, Phạm Vĩnh Cư dịch, Nxb Văn hóa Thông tin & TT Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội- 2005, tr.854, tr.906

Nguyễn Anh Tuấn



TRÒ  TRUYỆN VỚI THÚY  KIỀU
BÀI THƠ HAY NHẤT CỦA LÝ PHƯƠNG LIÊN

Triệu Xuân




Khoảng sau Tết Nguyên đán 1970, thơ Lý Phương Liên xuất hiện trên báo ở miền Bắc và tức khắc thu hút sự chú ý của dư luận văn học. Người ta nói nhiều, ca ngợi nhiều về chị bởi trước hết thơ chị mới lạ, hay. Chị mồ côi cả cha lẫn mẹ. Cha chị là công nhân, làm ở nhà máy điện Bờ Hồ, ông mất vì bệnh. Mẹ chị chết trong một trận bom khi đang trên đò qua sông Hồng. Chị học hết lớp 8 (hệ phổ thông 10 năm) phải bỏ học đi làm công nhân, kế nghiệp cha, để nuôi các em. Thưở ấy, là công nhân mà lại biết làm thơ, thơ lại hay thì được ca ngợi tót vời. Tôi nhớ mãi ấn tượng đầy khâm phục của sinh viên chúng tôi khi đang học năm thứ hai Khoa Ngữ Văn Đại học Tổng hợp Hà Nội- được đọc nguyên một trang thơ Lý Phương Liên, in trên báo Nhân dân, ngày 20-8-1970, và nhiều tờ báo khác. Thời ấy, văn, thơ mà được in trên Nhân dân là khủng khiếp lắm! Lý Phương Liên trở thành sự kiện trong làng thơ: Nổi tiếng ngay từ những bài thơ đầu. Hồn thơ Lý Phương Liên trong trẻo, hồn nhiên, lối thể hiện mang âm hưởng thơ ca dân gian, truyền thống nhưng khá hiện đại và rất thực. Em mơ có một phiên tòa, Ca bình minh, Chim bằng… là tấm lòng của một thiếu nữ giữa thời đạn bom khói lửa vẫn tràn đầy lòng nhân ái, cháy bỏng tình yêu và dồi dào nghị lực. Bài Chim bằng là chỉ dấu sáng chói của một tâm hồn thơ yêu tự do, khát khao tự do, dám phủ nhận những lồng son tù túng, đồng thời cũng chứng tỏ lối thơ cách tân khá sớm của tác giả. Thế rồi bài thơ dài: Trò chuyện với Thúy Kiều (Nghĩ về Thúy Kiều) được in trên báo Văn nghệ. Ngay lập tức, chị bị phê phán. Thậm chí, có kẻ cho rằng Trò chuyện với Thúy Kiều là của một tên Nhân văn Giai phẩm đã đưa thơ của hắn cho chị in dưới danh chị để… Thế là “xong phim”!

Tài thơ của Lý Phương Liên đã không gặp may. Nhân duyên của chị chỉ đến thế là hết ư? Rất nhiều người xót xa, tiếc thay cho chị, tiếc cho nền văn học nước nhà. Tài năng mà không gặp môi trường, thủy thổ lành thì làm sao đơm hoa kết trái!
Tôi cho rằng Trò chuyện với Thúy Kiều là một trong những bài thơ hay nhất của cuộc đời thơ Lý Phương Liên, nó là đỉnh của chị. Bài thơ dài xuất hiện trên Văn nghệ, lập tức gây dư luận khen chê sôi nổi. Bài khen thì không thấy báo nào đăng, chỉ toàn những lời chê. Đất nước đang dốc toàn lực cho cuộc chiến tranh: Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào. Cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân 1968 không thu được kết quả như mong muốn duy ý chí ban đầu, nay đang tổ chức đợt hai. Chiến dịch thứ hai này càng tổn thất nặng nề hơn. Miền Bắc, hơn lúc nào hết, càng phải: “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả cho chiến thắng” … “Dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn”! Văn học nghệ thuật, trong đó có thơ, cũng phải là một mặt trận, là người lính xung kích để giành chiến thắng, giành độc lập tự do. Thế mà Lý Phương Liên lại đau đáu tư duy về thân phận nàng Kiều, lại trắc ẩn với hàng vạn nàng Kiều hiện đại, không chỉ ở Việt Nam mà trên toàn cõi nhân gian. Lý Phương Liên viết: Trái đất chúng mình cho đến hôm nay/ Vẫn còn những cuộc đời như nàng chìm nổi/ Thời gian còn nửa ngày là đêm tối/ Còn đồng tiền đổi trắng thay đen/ Còn sắc tài bạc mệnh với hờn ghen/ Còn những Mã Giám Sinh, Hoạn Thư, Hồ Tôn Hiến/ Còn những đất đai triền miên chinh chiến/ Thúy Kiều ơi, nàng sống tháng năm dài… Chỉ riêng với đoạn thơ vừa dẫn, Lý Phương liên đã đủ bị phê bình kịch liệt, nếu không muốn nói đến những kiểu cách ứng xử tinh vi… bất thành văn thời đó! Chủ nghĩa cộng sản là mùa Xuân của nhân loại! Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc đã được xây dựng, cho đến khi bài thơ này được viết, là hơn 15 năm. Thế mà Lý Phương Liên dám hạ bút kêu than cho số phận người phụ nữ hiện đại, dám viết rằng thời của chị vẫn còn rất nhiều nàng Kiều, vẫn còn những Mã Giám Sinh, Hoạn Thư, Hồ Tôn Hiến, đồng tiền vẫn đổi trắng thay đen tác yêu tác quái! Bị đánh là phải!
Nguyễn Du vĩ đại ở chỗ: ngay từ đầu thế kỷ 19, ông đã có tác phẩm tuyệt hay viết về thân phận người đàn bà của chung toàn nhân loại. Lý Phương Liên đồng cảm một cách sâu sắc với nàng Kiều, tức là với thi hào Nguyễn Du, đã cất lên tiếng kêu xé lòng của những nàng Kiều hiện đại, ở một khía cạnh khác của thân phận, một góc khác của niềm khát khao về lòng nhân và hạnh phúc, một nẻo khác hướng về tương lai...
Đặc biệt cô gái trẻ 23 tuổi (ta) đã hồn nhiên viết ra những dòng thơ sâu sắc về tư  duy, lấp lánh tư tưởng nhân bản về định mệnh, về nghị lực mà người phụ nữ quyết vượt lên số phận của con người. Những người phụ nữ Việt Nam thời ấy đã làm được như rứa:

Sông Hồng đó, nọ Hồ Tây
Chết trong nước cuốn có ngày nổi lên
Kiểu gì chết cũng thấp hèn
Kiểu gì chết cũng làm hoen ố đời
Trên chết chóc muốn dập vùi
Trên đau thương mới là người, người ơi…

Quyết không chịu chết, không đầu hàng số phận, không chào thua định mệnh. Tuổi hai mươi không tin vào định mệnh/ Định mệnh là đối thủ tiến công. Lý Phương Liên đã làm được như lời mẹ dặn, chị đã hãnh diện ca ngợi người phụ nữ trong bài thơ này: Không có con đường nào toàn bóng mát và hoa/ Không có vùng trời nào toàn chim hót/ Không có cây khế vàng trong cổ tích/ Kho báu cũng không, dù có mật khẩu vừng…/ Em đón nhận đời em sau một thoáng hãi hùng/ Chôn mẹ, nuôi đàn em thơ dại/ An phận ư? Mơ hồ sợ hãi/ Sống vẫn là lời mẹ dặn thiêng liêng…
Phải sống! Đơn giản là chết thì chết kiểu gì cũng là hết, là hèn. Phải sống! Bởi thế cả dân tộc Việt Nam đã vùng đứng lên: Những ngày sáu chín, bẩy mươi/ Chẳng có nơi đâu hơn tuyệt diệu con người/ Vai gánh nặng cuộc chiến tranh hủy diệt/ Mỗi người dân đều nhận phần mất mát/ Chia đều nhau bom đạn với cơm ăn.
Thơ hay rứa, thật rứa, tự hào rứa mà bị đánh! Tệ hết sức! Người ta bảo Lý Phương Liên gieo mầm bi quan yếm thế, làm nản chí lòng người trai trẻ đang ra trận! Thật là ác tâm ác khẩu. Hãy đọc những dòng thơ: Tôi cứ đi chuyên cần bền bỉ/ Trông xa về phía trời hồng/ Thúy Kiều ơi, như người sang sông/ Tôi đưa đò cập bến (…)/ Đất nước chiến tranh nhân dân còn cơ cực/ Khi cái chết vãi từ trên phản lực/ Bom chùm, bom lửa, bom bi… Đời còn nhiều gian khó phải qua… / Thấy hết gian truân để mà cười, mà sống… Đường ra biển có thể dài năm tháng/ Mất mát nhiều hơn, gian khổ cũng nhiều hơn/ Nhưng một điều chắc chắn phi thường/ Chúng tôi sẽ lên bờ vào một ngày nắng đẹp…
Trong bản in đầu, tôi còn nhớ có hai câu: Tuổi hai mươi không tin vào định mệnh/ Định mệnh là đối thủ tiến công. Hai câu ấy sau này không còn nữa, nó có vẻ trực cảm, trực nghĩa quá. Bài thơ của chị là ánh phản tâm hồn đa cảm nhưng khỏe khoắn giàu nghị lực.
Lý Phương Liên làm thơ vào thời của những khẩu hiệu, những phong trào, những hành khúc, chỉ được nói đến chiến thắng, ca ngợi sự hy sinh vì chiến thắng, không chấp nhận nói về nỗi đau buồn, mất mát, về số phận, về định mệnh hay là những thứ tư tưởng dễ khiến người ta ý thức về cá nhân, về quyền của cá thể… Chị biết điều đó nhưng chị lại rất dũng cảm – dũng cảm chứ không phải khờ, phải liều-, cứ nói những gì tâm hồn mình, trí tuệ mình thôi thúc! Đơn giản là không gì có thể kiểm soát, lèo lái được; không ai có thể trói buộc được tình cảm và trí tuệ con người:/ Lẽ nào em buộc cánh anh/ Buộc cánh anh/ Buộc cánh anh cũng chẳng thành tình yêu!
Chị là chim bằng, chị phải có và cần trời biếc! Chị khao khát tự do và lòng nhân. Thế mà…
Áp lực đến từ mọi phía… Lý Phương Liên, cô gái đang độ tuổi xuân sung sức đã phải buông lời nguyền: Phải sống cho ra sống, nhưng không làm thơ nữa! Thế nhưng thơ của chị vẫn được rất nhiều người thuộc, không ít anh lính trẻ ra trận mang trong ba lô tờ báo in thơ chị, cuốn sổ nhật ký chép thơ chị, mang trong tim tình cảm mà chị truyền vào hồn chữ hồn thơ…

Triệu Xuân
Tạp chí Văn chương ngày nay, số 4.2011



VĂN BẠN VĂN 1

TOÀN TẬP
Nhiều tác giả/ Nguyễn Nguyên Bảy chủ trương/
NXB Văn Học ấn hành 1.2013

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét