Thơ TĂNG THẾ
PHIỆT
0903809773
Cánh
đồng bị treo cổ
Tôi đứng sững trước cánh đồng bị treo cổ
Bởi bút phê lạnh băng đá
Hết rồi màu mỡ xanh tươi
Nền văn minh lúa nước quê tôi.
Cánh đồng nằm lịm trong tức tưởi
Mặt tả tơi cơn bão thị trường
Chỉ còn ánh trăng dịu nhẹ
Đắp tấm khăn vàng lên vết thương.
Nghe xa xăm từ phía hồn thiêng
Cảm thương câu hát cũ
Trâu ta ăn cỏ đồng ta…
Con cò bay lả bay la…
Cánh đồng chết không hoài thai lúa nữa
Trâu và người dắt díu về đâu ?
Được nói lời trước khi bị giết
Cánh đồng đã lặng rất lâu
Nước mắt đỏ sông Hồng
Bạc phếch Cửu long
Xin đừng bán em
Đừng đem thế chấp
Nước mắt nuôi người mở đất
Máu khô xương mục rẻo rừng
Sao bán dễ dàng- em đẹp hơn tranh .
Giá bao nhiêu mỗi hạt hồng cầu châu thổ?
Mi chớ nhiều lời than thở
Lệnh bài được ném ra.
Đêm mông lung quê nhà
Đứng lặng trước cánh đồng bị treo cổ
Từ trong ca dao bàn tay mềm của gió
Vuốt mắt cho cánh đồng bi thương
Và ánh trăng,ánh trăng dịu nhẹ
Phủ tấm khăn vàng lên vết thương.
Đau đớn vạn vì sao rơi lệ
Buồn ni,cảm nhận ở bên đường.
Hai cô bạn cùng làng
Dúi vào tay bạn khoản tiền
Cầm đi tớ biết mẹ hiền bạn đau
Bỏ quê lên phố cùng nhau
Lao đao thợ dệt, hanh hao thợ đời…
Đừng chê bạc bẩn, tiền hôi
Bia ôm thì cũng là người mới ôm.
Biết đâu nhân thế vuông tròn
Cảm ơn bạn lắm, nhưng tiền thì không
Ngõ vòng mệt trí mỏi lòng
Tớ tìm phương khác đục trong rõ ràng.
Rưng rưng có chút bẽ bàng
Hai người con gái một làng…lạc nhau.
Người
tha hương
Lưng cong như dấu hỏi
Ngồi bệt bên vệ đường
Mắt sâu màu mệt mỏi
Một bà già tha hương.
Xoay trên tay củ khoai
Ngón gầy như chân kiến
Chán rồi việc khiếu kiện
Bà lê bước về quê.
Nhưng quê không còn ruộng
Biết làm chi bây giờ
Lang thang bán vé số
Đôi khi bà lơ ngơ.
Mê mê bà kể chuyện
Cổ tích đồng lúa vàng
Người ta phù phép mất
Thành dăm ba sân gôn.
Mất bóng anh thợ cày
Mất dáng cô thợ cấy
Cả lũ trẻ chăn trâu
Đã về đâu, đi đâu?...
Về đâu, bà không biết
Đi đâu, bà không hay
Cũng như không ai biết
Bà từ đâu tới đây.
Lũ trẻ bán vé số
Nghe cổ tích của bà
Cầu mong bọn phù thủy
Trời sẽ đánh không tha.
Bà chắp tay, mô Phật
Đừng nói thế các con
Rồi đi tìm cõi lặng
Trong sôi động Sài gòn.
Tre xanh và Bạch đàn
Nghìn năm đậm nét trong tranh
Ca dao cổ tích Tre xanh ngút ngàn
Mười năm
đỏ bạc đen vàng
Xanh Tre phải chiụ Bạch đàn sống chen.
Thương Tre cứng cáp dẻo bền
Mất đất nhẫn nhịn Bạch lên trắng trời.
Hồn quê tiếng
sáo chơi vơi
Ai hay Đàn bạch dám chơi Tre ngà.
Ông chủ
nhiệm làng tôi
“Ta đi khai phá rừng hoang”…
Ông Tân chủ nhiệm xung phong
Bác Viên Đảng viên xung phong
Ông Biên chú Ngãi cháu Tùng
Và nhiều cô bác nữa
Tình nguyện đi theo
Khai phá miền đất mới.
Sáng tiễn đưa đường làng như trẩy hội
Cây gạo bên đình phấp phới cờ bay
Rừng hoang thêm mấy chòm bản mới
Chốn quê bà con thêm ruộng cấy cày.
Bao năm vật đổi sao dời
Dân làng vẫn nhắc những người thân sơ
Chợ chiều chổi đót măng khô
Nứa tre gợi bóng người giờ đã xa
Vì mình họ cũng vì ta
Người già lá rụng cỏ hoa héo dần
Còn ai trên nẻo đường trần
Còn ai nhớ chuyện di dân một thời …
Ông Tân chủ nhiệm
Bác Biên, ông Viên
Cháu Tùng, chú Ngãi
Gương mặt khuất dần trong dĩ vãng xa
xôi …
Bao giọt máu của làng tôi
Rừng xanh mất hút bóng người còn đâu.
Con sông rưng rưng
Con kênh xanh xanh mái chèo đưa nhanh
Bài hát xưa bâng khuâng
Sóng
Ai đó đầm mình tắm trong kỉ niệm
Áo bà ba lúng liếng mắt răm.
Có hai người đi xe ” hộp” về thăm
Bạn xưa
Trở lại đồng tâm
Hương cá nướng thơm lừng mặt sóng
Men rượu nồng chếnh choáng dòng sông.
Đã từng
Ba người ba xứ
Chụm thành một tổ liệt oanh
Làm quan
Hai người lên phố
Ly cụng ly chứa chan tình.
Nhắc nhiều chuyện chiến tranh
Ít nói đời nay phân biệt ...
Nằm trên cỏ ngắm sao trời thao thiết
Mơ ngày mai, cùng ôm siết vai nhau.
Năm năm ,
Sau cuộc về thăm ấy
Bên sông
Nhà máy mọc lên
Ôi con sông như dòng đời cuộn chảy
Nước thải nghẹn dòng ngộp thở đêm đêm.
Và tôi thấy
Cả ba người bạn ấy
Lại chạm ly trong một nhà hàng
Có một người vỗ bàn đứng dậy
Dáng hao gầy con sông rưng rưng.
Hồn
đất
Rổ khoai nứt nở thơm hồn đất
Đĩa cà thâm mặn nỗi biển dâu
Hỏi bạn học còn ai trăng gió hỡi
Nước chè xanh một đọi uống cùng
nhau.
Mười tám tuổi tôi bỗng thành đội
trưởng
Chỉ dưới quyền ông chủ nhiệm
thôi
Từ con nít đến lão nông đầu bạc
Nghe lệnh tôi răm rắp tuân lời .
Quê tôi những ngày đầu cách mạng
Hai mẫu nguy cơ địa chủ rồi
Giờ mình tôi quản cả ngàn mẫu
ruộng
Có kinh hoàng không bạn học ơi !
Khoai cứ nứt nở thơm hồn đất
Bóc trên tay lịch sử xóm làng
Bạn học mười phương giờ đâu cả
Có cùng ta đứng dậy dưới mưa
chan…
Ta làm dân chẳng thích làm quan
Yêu cây lúa củ khoai từ thuở ấy
Tiếng súng nổ chân trời lửa cháy
Ông quan làng lại khoác áo nhà
binh .
Tạm biệt núi Hồng dòng sông Lam
xanh
Tôi đi khắp chân trời góc bể
Đêm nay ngồi dưới ánh trăng
thanh
Lại nhớ nước chè xanh, vị khoai
bùi xứ Nghệ
Trận chiến mới
Hai trăm ngàn nữ nông dân Việt Nam
Áo dài đổ bộ đảo Đài Loan
Mang theo vũ khí hương con gái
Chiến tranh lan nhanh tận nước Hàn.
Trận đấu không nhiều khai tử
Thắng thua nửa khóc nửa cười
Xóm Cồn có nhà thay tôn mới
Ai hỏi thăm, mắt mẹ nghẹn lời...
Bài ca đồng chó ngáp
Đồng ấy xưa chó ngáp
Ngun ngút lác cùng năn
Bom đạn gầm sấm chớp
Muỗi đỉa gieo kinh hoàng.
Đồng ấy xưa sình lầy
Mùa cạn bùn sụp gối
Mùa lụt bèo trèo cây
Căn cứ địa kháng chiến
Thân trai vùi nơi đây…
Có người lính sống sót
Dắt theo con gái cưng
Cùng 16 chiến sỹ
Gác súng trở về bưng…
Trải bao năm lặn lội
Năn lác thành lúa vàng
Đỉa rắn thành tôm cá
Dân muốn thờ Thần làng.
Nhưng sự đời biến đổi
Mơ ước gửi lênTrời
Người xưa thân về đất
Hồn thiêng bay chơi vơi…
Con gái nay đã già
Từng thanh thản theo cha
Ôi đứa con không nhà
Chim sáo nhỏ ngày xưa.
Vệc thiện,không tiếc nuối
Dòng đời tuôn chảy mãi
Sông Hậu rùng rùng trôi
Nắng quái xiên cuối trời…
Ai bơi trên cánh đồng
Lúa thơm thơm lạ lùng
Đốt nén hương cúi lạy
Thiêng chi? Tàn cháy cong .
Tướng công
Dưới thời triều Nguyễn sắc phong
Tướng công là bậc anh hùng từ đâu
Về hưu tước vạn hộ hầu
Ruộng vườn đại bác phóng lao một tầm
Cháu con tín nghĩa xa gần
Gọi là trang trại bạt ngàn cao su…
Cà phê,ruộng lúa mịt mù
Về trời sắp đến bất ngờ ông lo
...gấp gấp sửa luật công, tư…
Nếu không ai giữ ruộng bờ cho ta?
Ông
vừa nhập viện vừa mơ
Sửa mau điều luật “ta xưa” tán đồng.
Mộ kết
Giáo sư lưu loát tiếng Tây
Cha xưa tơi áo đi cày ruộng cao
Ông nội kết mả Tả Ao
Nên cháu phát lớn nhảy vào hàng quan .
Có ăn ắt phải hăng làm
Ông thảo một tập đoản văn rụng hồn
Làm sao cứ phải hạn vườn
Tích đất,dồn ruông cho “dân” làm giàu…
Trăm ngàn mẫu,thấm gì đâu
Không tin sang Mỹ,sang Âu mà nhìn..
Một ngày quan nhận hung tin
Về thăm mộ phát không tìm thấy đâu
Thì ra có một “dân”
giàu
Đã mua ngàn mẫu chuyển đâu mất rồi…
Ông tìm “thằng chủ” hỏi coi
Đứa nào ác thế lòng trời không buông.
Bất ngờ di động reo chuông
Thưa anh “thằng đó” cùng phường với anh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét