Thứ Bảy, 23 tháng 6, 2012

Thơ NNB/ 108 khúc tặng Liên/ Bài 11-20

nguyễn nguyên bảy

THƠ
108 KHÚC TẶNG LIÊN 
   11
KÝ ỨC CA DAO  


Trưa nao sân nắng chang chang
Cò ngoại chân trần trang thóc
Nắng quấn váy cò
Ngoại ngã
Cháu nâng
Ngoại mắng ca dao
Một đời gánh nắng không chao
Nay lưng mới võng nỡ nào nắng nghiêng?



Trưa nao cò đậu cành mềm
Móm mém cối trầu nhìn thương dì Út
Dì Út về nhà chồng

Ca dao gà
Ngoại ngả lá chanh
Ca dao cau
Bổ cỗ

 
Lá chanh ngoại hát canh cần
Ngoại tiện cau rồng
Ngoại têm trầu phượng
Tĩnh lòng ngoại vấn nhiễu khăn
Cắn cắn tóc đuôi gà dì Út khóc
Ngoại ơi sao mừng lại khóc ?
Ngoại cười ca dao
Cái cò lặn lội bờ ao
Lặn từ bờ mẹ lội vào bờ con...

Ca dao ngoại hát vui buồn
Lời lời cháu nghe thuộc hết
Nhưng không sao bắt chước được bà
Lúc mắng ca dao
Lúc hát ca dao
Ca dao nao lòng
Này cò này vạc này nông
Không sống tử tế đừng mong thành người.

( Sách Kinh Thành Cổ Tích, NXB Văn Học)

12

ỜI RẰM MỒNG MỘT  

Cha không biết mình thuộc chi trứng nào ngày xưa xuống biển
Nhưng đều đặn suốt đời mồng một lịch trăng
Cha thắp ba nén nhang lạy về hướng biển
Mẹ không biết mình thuộc chi trứng nào ngày xưa lên rừng
Nhưng đều đặn suốt đời mười rằm lịch trăng
Mẹ thắp ba nén nhang khấn về hướng núi
Như thể hẹn nhau từ kiếp trước
Cha đón mẹ luân hồi nơi cửa sông
Thành đôi chồng vợ
Tổ yêu kết ở ven thành
Nơi những cây sao cao vút trời xanh
Rợp từng đàn cò trắng
Nơi một thời vua đúc tiền đúc súng

Gốc đa nhà Bò trẻ chơi ô ăn quan
Tổ tình nhỏ một vuông khăn
Đủ cho các con rửa mặt
Môn tiền trông về hướng biển
Sáng mồng một cha thắp hương
Môn hậu trông về hướng núi
Đêm rằm mẹ vọng nhang
Cha không là sĩ là quan
Cha chỉ là ba sào thổ
Mẹ lúng liếng khắp vùng Sấu Giá
Thạo nghề dệt lụa ươm tơ
Gái tầm tang da bóc trứng gà
Lưng ong cong mềm khung cửi
Dạy con mẹ hay hát giỗi
Lời nào cũng hạ cung thương
Cha tôi sát cá lạ thường
Bữa nào con đào bơ giun
Là bữa ấy cha câu đầy rổ cá
Mẹ dừng tay dệt lụa
Chạy đi hái lá bờ rào
Mẹ có biệt tài nấu cỏ thành canh
Hỏi vì sao cha sát cá thế
Cha cười nhìn về hướng biển

Hỏi vì sao mẹ tìm rau giỏi thế?
Mẹ mắng yêu nhìn về hướng núi.
Bảy đứa con mẹ khóc khổ vì tôi nhiều nhất
Và tôi sợ đêm rằm nhất
Sợ lời giải cầu của mẹ linh thiêng
Con đừng vượng hỏa thành điên
Mê thơ phú hóa đời rồ dại
Sao không đi bắc cầu sông Cái
Không đi lái đò sông Con
Không là thấy giáo làng
Không xuống bến Phà Đen làm phu khuân vác?
Mẹ ơi lạy mẹ đừng khóc
Đừng bán khoán con cho đền phủ làm gì
Con chỉ là con của mẹ
Mẹ nhắm mắt mở môi khe khẽ
Khấn âm âm lời Chinh Phụ lời Kiều
Cha linh cảm lời cầu phiêu diêu
Bến sông buông câu lặng núi
Bao chiều
Bao chiều
Bao chiều
Canh rào không cá

Cả nhà cơm suông
Tiền bán cá cha mua giấy bút
Trao tình cho con
Dặn chép thơ tích đời trăm chi trứng
Tích đời ông bà sinh ra cha mẹ
Tích đời cha mẹ sinh ra các con
Và tích các con
Những tích đời mười rằm thắp hương
Hướng núi
Núi xanh hồn người
 
Những tích đời mồng một vọng nhang
Hướng biển
Biển hồn xanh khơi
 
Con đón lời ký thác
Hết nhìn cha lại nhìn mẹ bồi hồi
Tay đồi mồi cha trang mẹt cơm phơi
Mai thả xuống hồ nuôi cá
Mẹ luồn kim rắn rồng từng mũi vá
Áo lành con mặc sáng mai
Và sáng mai
Mồng một đầu đời
Cha cho con trông về hướng biển vọng nhang... 

 
 (Sách Kinh Thành Cổ Tích, NXB Văn Học)
 

13
HƯƠNG TRĂNG

Thời nào các nàng tiên bay về đây tắm mát
Những đêm trăng
Giếng tiên trăng ngát một vùng
Đêm nay trăng vằng vặc
Bên giếng một mình em
Xin đừng trách gió rủ chân
Hương trăng gọi đấy
Đừng trách câu chèo ai ngân
Hương trăng hát đấy
Đứng trách mắt anh trân vân
Giếng Tiên em tắm
Vai trăng sóng sánh
Vú trăng sóng sánh
Anh ghen mơ hồ môi ai
Đêm ấy lâu rồi xưa rồi
Xấu hổ lắm
Nhưng làm sao quên được hương trăng

( Sách Kinh Thành Cổ Tích, NXB Văn Học)

14
HẰNG NGA ĐẦU ĐỜI
 


Ngày rước dâu tình đi qua ngõ
Rồng rắn tiên xanh tiên đỏ
Mặt chị Hằng Nga
Em cướp Hằng Nga
Em giấu vào ngực
Trong veo mắt ngọc thờ tình
Trầm nhang thắp hát
Rồi bỗng dưng nước mắt
Hơ hải chị về lối ngõ rước dâu
Da trăng bạc phếch
Không đâu giá họa sát chồng
Khóc lụt đêm chong
Má cao đôi gò chạy lũ
Đâu rồi Hằng Nga?
Hằng Nga em ủ trong ngực
Em bế vào chùa giải oan
Xin trầm nhang hong khô nước mắt

Phỉ phui lời cuội lời bờm
Xin sắc sắc không không chuông
Mở lòng cả gió
Đón trăng ra khỏi mây mù
Hoang đường gò má sát phu
Em bươn bả chạy sang làng Gióng
Lạy xin cơm Thánh hạt rơi
Nước mắt chị em chan đầy bát
Em và lùa
Em vươn vai cố lớn
Họ chờ tình với chị ơi

Chị chẳng chờ tình
Gò má sát phu vượt rét
Đào phai dài tết
Chị lại đi lấy chồng
Em vẫn ủ Hằng Nga trong ngực
Trầm nhang thắp hát
Dỗ mình cơm Thánh hại rơi
Nhỡ đâu mắt khóc chị về..


( Sách Kinh Thành Cổ Tích, NXB Văn Học) 

 15
SÔNG TƯƠNG


Gió thổi qua mắt em
Gió mang theo vị mặn
Mắt em nhìn đâu sao lâu chớp thế
Có phải em dong thuyền ra bể
Lỡ rớt mái chèo trên sông Tương?

Hỏi em anh bỗng nhiên buồn
Chiều nhạt nắng tóc xõa vai nhạt nắng
Sông Tương
Sông Tương ở đâu
Mà ai cũng đi qua sông Tương nhỉ
Ai đi qua cũng rớt mái chèo?

( Sách Kinh Thành Cổ Tích, NXB Văn Học)
 
16
TỰ HỌA TUỔI TRAI

Ánh gằm gằm giấu sau đít chai
Cháy thành lửa cũng chỉ là lửa mắt
Mắt trông theo nắng vượt thác
Mắt võng theo trăng qua đèo
Mặt trận cờ reo quân reo
Trào lửa mà đành nuốt khóc
Đứng tựa lưng trăng
Bút thay gươm súng
Chuốt câu thề

Sắc đỏ của máu và mầu vàng của da
Mỗi chúng ta là một ngọn cờ

( Sách Kinh Thành Cổ Tích, NXB Văn Học)

17
LIỄU TÂY HỒ
 
Em đứng bên hồ
Phong phanh liễu
Mưa phùn chuốt liễu mưa xanh
Từng nhành tóc xõa

Mẹ dắt em đi chôn cha
Liễu bồng em đi chôn mẹ
Bơ vơ em muốn quên mình

Liễu gọi tên em
Tóc quấn tay em
Tây Hồ chỉ thấy gió

Tây Hồ chỉ thấy sóng
Bên hồ thân liễu mảnh mai


Mảnh mai liễu vớt em lên
Hà hơi về sống làm người
Buồn thương không là cớ chết
Khổ đau không là cớ chết
Biết chăng
Xưa liễu là người
Giận tình trẫm mình thành liễu
Run rẩy bên hồ một liễu
Mưa phùn gió bấc căm căm
Liêu Trai chín kiếp chưa người

Em cúi đầu tạ liễu
Thân côi hồi sinh làm Tấm
Phúc đời gặp vận thăng hoa
Thăng hoa Tấm kề vai liễu
Hài Bụt hẹn tình
Đẹp buồn riêng liễu
Tây Hồ trăng nghiêng

( Sách Kinh Thành Cổ Tích, NXB Văn Học)

18
MƠ SEN


Thoáng say trong tiếng gió ru
Bay ra chấp chới cánh cò chao êm
Chân cò đậu xuống lá sen
Sen thu thoang thoảng hương chen vị buồn
Ao thu bỗng hoá biển cồn
Cánh cò bỗng hoá cánh buồm trắng phau
Tôi vội mượn gió bắc cầu
Trắng buồm mất hút trong mầu sen xanh
Thuyền ơi chờ anh
Sóng Đà tình vượt sóng Kình tình qua
Buồm giăng đầy mặt khơi xa
Bỗng cò nghiêng cánh
Gánh tôi về
Thuyền Sen

Thuyền tình khoang lạ hương quen
Cửa khoang rộng lắm mở lên tận trời
Sợ em chạy trốn tình tôi
Choàng gọi
Ôm gốc si ngồi bờ sen

( Sách Kinh Thành Cổ Tích, NXB Văn Học)

19
LỜI GIÓ


Là gió anh đi tìm em
Kinh Thành năm cửa
Biết tìm em
Nơi nào
Đất thật thấp
Trời thật cao
Tình yêu lẽ của ngọt ngào tìm nhau

Phong thiên gặp gió trên cầu
Hỏi bè bạn
Chỉ một mầu phong phanh
Lên Nùng hỏi gió non xanh
Phong sơn gặp một cánh oanh tìm bầy
Bay từ vực đá lên cây
Từ cây lên núi hẹn ngày thăng cao
Ra sông

Hỏi sóng thầm thào
Phong thủy gió hoán lối vào cửa ô

Tình chưa một lời hẹn hò
Gió chẳng trách tình lần mò cút bắt
Gió vào cửa ô
Bồng bềnh tỉnh say
Gió hỏi điếu cày
Gió hỏi cây bàng cây sấu
Gió hỏi bánh nếp bánh chưng
Ba mươi sáu phố phường gió hỏi
Ông bình vôi động lòng
Ông têm khẩu trầu long
Buộc dây tơ tay gió
Dẫn gió đi tìm tình

Gặp em
Gặp em
Gặp em
Anh lao như một mũi tên gió gầy
Em ôm gió một ôm tay
Bật khóc
Lẽ của sum vầy tình yêu.

( Sách Kinh Thành Cổ Tích, NXB Văn Học)

20
TRĂNG MẬT


Ngày nhành hoa yêu kiều
Đồng đất hoang vu nắng hạ
Rón rén đến gần nằm dài trên cỏ
Anh đăm đắm mắt
Đu đưa hương gió thay lời
Anh nhận đón hương em tận ngực
Trăm vòng trời biếc anh bay
Đêm một khoé trăng tươi
Vắt veo ngang cửa gió
Hai bàn tay anh đỡ
Sữa trăng khát những ngụm đầy
Đàn chưa thôi réo rắt
Anh nâng thơ ngang ngực
Trăng mỏng mảnh hòa tan

Rồi em phì nhiêu như đồng xanh
Rồi em ngát thơm trang sách
Rồi em vợ một đời

( Sách Kinh Thành Cổ Tích, NXB Văn Học)



Thơ nnb/108 Khúc Tặng Liên 
 Góc riêng tư nguyennguyenbay.blogspot.com





Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét