Thơ
NGUYỄN MINH KHIÊM
Phù sa màu nước ối
Mẹ ra sông
giặt tã lót của tôi
Rũ thời gian
đỏ ngàu mặt sóng
Hạt phù sa
roi rói hồng cầu
Châu thổ
hiện phù sa màu nước ối
Như từ giọt
phôi thai đầu tiên châu thổ đã có màu cờ
Lá cờ nghìn
xưa đã được mơ thấy trên những lưỡi cuốc lưỡi cày cái tên cái nỏ
Giờ vẫn còn
nghe mùi máu Sơn Tinh, Thủy Tinh rong róc chảy trong từng hạt lúa
Quánh đặc
màu nước ối phồn sinh
Con cháu
rước về tắm cho thần phật
Rất nhiều
vực thẳm sinh ra từ dấu chân trượt ngã từ thời tiền sử
Chỗ bất lực
chỗ đớn đau không tan được kết thành đồi núi
Cứ sói mòn
cứ lấp đầy cứ bắc cầu từ thế kỷ này qua thế kỷ khác bằng những trận mưa nước
mắt, những trận mưa mồ hôi những trận mưa máu
Xuyên qua ý
nghĩ mưu mánh bầm đen của Triệu Đà, những chiếc lông ngỗng nông nỗi của Mỵ Châu
chảy vào tuyên ngôn độc lập
Xuyên qua
hội nghị Diên Hồng, cánh tay sát thát đọc câu thơ đầu ngẩng chín tầng mây
Đọc câu thơ
mà Thoát Hoan phải chui vào ống đồng chạy trốn
Cóc kêu dưới
vũng tre ngâm trở thành bà Chúa Kho, trở thành Quốc Mẫu, thành Chúa Thượng Ngàn
Xuyên qua
những đêm hội Long Trì, Vụ án Lệ Chi Viên, Trịnh Nguyễn phân tranh nghe đất
chuyển nồi da nấu thịt
Yểm thế đất
này, diệt thế đất kia, chỗ nào cũng bày đặt hang hùm nọc rắn
Sinh ra mái
nhà hình chóp nón, sinh ra ngọn tháp hình mũi chông mũi mác, sinh ra ngôi chùa
hình bông sen, sinh đài nghiên tháp bút, sinh bầu bí một giàn, sinh cau sáu bổ
ba, sinh gà cùng một mẹ, sinh ngày giỗ Tổ.
Cửa sông xòe
bàn tay trăm ngón. Ghì kéo biển vào lòng. Những cánh buồm mang hình La Hán.
Những hòn đảo mang hình La Hán. Những hòn đảo mang hình phật nghìn mắt nghìn
tay. Cửa sông thành nghìn mắt nghìn tay.
Hạt phù sa
ngân lên thành chuông chùa Quán Thánh. Ngân lên thành chuông chùa Thiên Mụ.
Nghìn bậc lên Yên Tử. Nghìn bậc vào Hương Tích. Giặc dã nghìn năm vẫn thanh
lịch cơi trầu.
*
Chỉ còn mấy
chuyện thần thoại như những ngọn đèn mù mờ cắm lại
Chỉ còn mấy
chuyện truyền thuyết như mấy ngọn nến mù mờ cắm lại
Chỉ còn mấy
chuyện cổ tích như mấy đốm than mù mờ cắm lại
Để người sau
bám vào khỏi lạc
Như bày kiến
bày mối tiết hoóc môn vào cỏ
Cứ ngửi suốt
chặng đường để nhận biết tổ tiên
Cứ xuyên qua
ngày xửa ngày xưa con cháu tìm về nguồn cội
Lúc xỉa vào
bọc trứng Âu Cơ
Lúc xỉa vào
mấy tiếng uy-oa
Lúc xỉa vào
linh vật linga
Lúc giẫm
phải mảnh tước mảnh sành Núi Đọ
Lúc thụt
xuống đống vỏ ốc vỏ sò nơi hang động người xưa
Dính phải lá
bánh trưng bánh dày chân nọ đạp chân kia dãy ra không nổi
Màu đỏ dưa
hấu thôi miên tưởng nắm được mặt trời
Có lúc cội
nguồn rung trên bộ đàn đá
Có lúc ngân
lên trên trống đồng Đông Sơn
Không có ánh
đuốc nào soi vào hạt phù sa châu thổ
Rũ thời gian
đỏ ngàu mặt sóng.
Hạt phù sa
không có tên trong những chiếc cọc Bạch Đằng
Không có tên
trên những tấm bia dựng trong Văn Miếu Quốc Tử Giám
Hạt phù sa
không để lại dấu vân tay
Chưa một ai
tạc tượng
Chưa làng
nào tôn gọi thần hoàng
Chưa đôi môi
nào cúi xuống tạ ơn khi thành chồng vợ
Không ai hỏi
móng kinh thành đã đặt vào đâu
Chân cột nhà
mình đã đặt vào đâu
Nếu không có
phù sa châu thổ.
Châu thổ
tuổi dậy thì
Đất mỡ màng
hơn gái một con
Màu sữa non
ướt những cánh buồm
Châu thổ
hình mắt lưới
Phù sa hình
mắt lưới
Rơm rạ mắc
vào kéo lên cả nghìn năm
Phù sa nhiều
hát xẩm hát xoan
Vỗ mặt ruộng
rung từ thời tiền sử
Phù sa nhiều
tiếng võng tiếng nôi
Chạm lời ru
mọi làng quê thao thức
Phù sa nhiều
nước mắt mồ hôi
Nhấp một chữ
mặn bao nhiêu chuyện kể
Những hạt
phù sa không bao giờ cũ
Ngực vú căng
ngồn ngộn trước đại dương
Như ngày nào
cũng có trẻ sơ sinh
Cả châu thổ
trắng trời tã lót
Qua nghìn
tuổi vẫn chưa cắt rốn
Mai An Tiêm
đỡ ngoài hoang đảo
Chúa Thượng
Ngàn đỡ phía rừng xanh
Thổ địa thổ
công đỡ chỗ đầu rau ông bếp
Các vua Hùng
đỡ bằng năm mươi người con theo cha xuống bể;
Năm mươi người con theo mẹ lên rừng
Năm mươi người con theo mẹ lên rừng
Nhân dân
nghìn đời đỡ bằng xương máu
Sóng thủy
triều quằn quặn những cơn đau
Hạt phù sa
không chất lên mình cung tên đao kiếm
Không có
những tập đoàn người cầm lửa soi lên những vòm hang,
nhảy xuống từ cành cây đi bằng hai chân bước vào trang sử
nhảy xuống từ cành cây đi bằng hai chân bước vào trang sử
Không có bày
quạ kêu trên những bãi xương người
Không có địa
đạo hầm hào chi chít chạy trong màu tóc trắng
Không có con
đường đi hết đời người chưa đi hết nghĩa trang
Không có cái
chết tập thể của hàng ngàn cánh rừng bị bom phát quang,
bom na pan , mưa a xít và chất độc da cam
bom na pan , mưa a xít và chất độc da cam
Bông lúa
bông kê cũng cong xuống như người đứng vái
Sóng thủy
triều quằn quặn những cơn đau
Đi qua tháng
ba như có hổ rình
Đi qua tháng
tám như đi trên lưỡi hái
Cày cuốc
giậm nơm không có đường đi tắt
Nối nhau
xuyên qua số phận mình
Mồ hôi không
chất được lên thuyền
Sợ vỡ lời ru
cháu con bị đắm
Những giấc
mơ rơi vào hang động
Những giấc
mơ nơm nớp bóng đè
Nên câu hát
trao duyên chỉ hương thơm lộc biếc
Lọc bớt đi
ráng đỏ ráng vàng
Lọc bớt đi
những nanh vuốt quỷ
Trượt ngã để
ngoài tục ngữ
Các thế hệ
sau mơ ngủ đỡ giật mình
Bao nhiêu
cái chết đồng bằng để thành châu thổ
Dòng sông đi
không mang mộ suối khe
Những con đê
không nhớ hết hài cốt bờ vùng bờ thửa
Mấy lớp xóm
thôn dưới móng những kinh thành
Nhưng không
tắt nắng ở phía sau bức vách
Những lúc
trắng tay vẫn có căn buồng ở trong quả thị
Có nắm xương
cá bống chôn dưới chân giường vịn lúc bơ vơ
Có chiếc
quạt mo để mà mặc cả
Dưới cỏ
hoang có dấu bàn chân lạ
Phù Đổng
Thiên vương sinh bất cứ nơi nào
Có đàn thần
đặt ở dưới hang sâu
Móng thú
móng chim cũng tiềm tàng lẩy nỏ
Quả ớt quả
chanh để ngoài câu mời quan họ
Những gốc đa
đội nón ba tằm
Những gốc đa
mặc áo tứ thân
Những gốc đa
têm trầu cánh phượng
Những gốc đa
tát nước bên đình
Con trâu cái
thừng bão không quật nổi
Dáng người
mang hình cây lúa nước
Trống đồng
mang hình cây lúa nước
Tổ Quốc mang
hình cây lúa nước
Những giấc
mơ chín đỏ rực trên đầu
Rạ rơm trở
thành nguồn cội
Rũ thời gian
đỏ màu nước ối
Châu thổ
chưa bao giờ cắt rốn
Cửa sông
quằn lên những cơn đau bật máu
Tôi nhận ra
mình – Một tinh thể phù sa.
.1.3.2012
Thơ Nguyễn Minh Khiêm/ Tác giả gửi qua eMail
NNB vi tính giới thiệu
Thơ Nguyễn Minh Khiêm/ Tác giả gửi qua eMail
NNB vi tính giới thiệu
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét