Chủ Nhật, 2 tháng 12, 2012

Lê Xuân Quang viết về Vương Kiều Ân


 
VƯƠNG KIỀU ÂN
TU H
Ú KÊU CHI KHẮC KHOẢI MỘT ĐỜI
LÊ XUÂN QUANG

Nhân dịp đầu xuân, chúng tôi tụ tập ở nhà người bạn đón tết Nguyên Tiêu. Chủ nhà cắt bánh chưng, giò luạ, vài điã xào đoạn rót rượu mời.  Mọi người vui vẻ nâng li. Chuyện lan man… cuối cùng quay lại đề tài Thơ và ngày Thơ Việt Nam. Một ông biết tôi cũng viết lách, quay sang hỏi: Ông có biết bài thơ Bến đò ngày xuân của bà Anh Thơ không?
Bài thơ này tôi thuộc nên trả lời bạn ngay.
Dường như không chú ý đến phản ứng của tôi, bạn hỏi tiếp: Thế ông có biết cái bến đò ấy ở đâu không?
Tôi ngớ ra.
Chưa bao giờ đọc thơ lại tìm hiểu địa danh hay những gì liên quan đến xuất xứ của vấn đề mà nhà thơ nói đến, diễn tả trong lời thơ. Tuy vậy, đối với bài BĐNX, tôi nhận ra đó là bến đò trên bờ sông Ninh Cơ – quê tôi nên  trả lời bạn: Đích thị là bến đò chơ Gía quê mình.
- Ông lầm - bạn phản ứng ngay tắp lự. Không để tôi có thời cơ tranh luận, bạn miêu tả cảnh vật cái bến đò nằm trên sông Đuống của miền quê ông ta… đã từng trèo lên cây Xoan để tổ Sáo rồi bắt đám Sáo non về nuôi , đoạn đọc một mạch hết bài thơ… Tôi đành chịu sự “cực đoan” của bạn mình bằng cách im lặng - chấp nhận buông một câu làm ra vẻ tán thưởng - Thế à?.
Tan cuộc nhậu, trên đường về, những câu thơ anh bạn kia đọc, lại trở về trong trí tưởng tự nhiên các tác phẩm của nữ sĩ lại vang lên trong tâm tưởng: Bức Tranh Quê,Mùa chim Tu hú – mùa vải chín rồi nghĩ về nữ sĩ…
Vương Kiều Ân, (bút danh ANH THƠ) cùng ba nhà thơ kỳ cựu Đoàn Văn Cừ, Bàng Bá Lân, Nguyễn Bính nổi danh trên thi đàn Việt Nam thời tiền chiến (trước 1945), trong đề tài viết về đồng quê Việt Nam.
Tôi lục tìm số sách báo lưu trữ đặt trên gía, tra trên mạng đọc ngốn ngấu, nhận ra: Nếu như Đoàn Văn Cừ miêu tả phong cảnh mọi mặt của đồng quê, dưới cái nhìn từ góc độ bên ngoài, Bàng Bá Lân miêu tả Đồng quê từ khung cảnh làng quê dù đó chỉ là nói về một vật cụ thể - cái cổng làng, thì Anh Thơ lại diễn đạt tình làng quê qua tâm sự người thiếu nữ ở trong, tận đáy sâu tâm hồn, trước cảnh đồng quê qua con người cụ thể: Bà cụ gìa, cái Đĩ con, Đĩ nhớn (1), Một con đò, một Đêm mùa hè, mùa thu, mùa đông - Đêm 30 tết! Tập thơ Bức Tranh Quê gồm các bài thơ trữ tình, thấm đượm nồng hậu tình yêu thương của người phụ nữ Việt Nam đối với đồng quê, nơi mình sinh ra, lớn lên... Chiều Thu - bài thơ đầu tiên của Anh Thơ, lúc 14 tuổi (khi bà vừa mất mẹ, viếng mẹ trở về) - đăng trên Tạp Chí Đông Phương năm 1934, làm người đọc thật cảm động :
Bức tranh chiều khen thay tạo hóa
Lúa xanh xanh, sáng tỏ tươi mầu
Đìu hiu lạnh gió vương sương tóc
Cảnh thắm tươi mờ xóa phôi pha
Ngậm ngùi em trở lại nhà
Thơ lên điệu thảm, đàn ra giọng sâu.
42 bài thơ trong tập Bưc Tranh Quê lại vẽ đồng quê Việt nam với đầy mầu sắc. Nếu đem xâu chuỗi lại, qủa thật đó chính là bức tranh của đồng quê đúng như tưạ đề của tập thơ.
Mưa mùa xuân :
Mưa đổ bụi êm đềm trên bến vắng
Đò biếng lười, nằm mặc nước sông trôi
Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tim rụng tơi bời...

Mưa mùa hè :
Tre lả lướt ngiêng đầu cho nước gội,
Cau thẳng mình giang lá đón mưa rơi,
Đồng chìm xuống, bông lua vàng rũ rượi,
Ao rềnh lên bè rau muống xanh tươi.

Đêm mùa thu :
Ngoài sông nước, đò đầy về chở gió,
Thuyền lênh đênh trong lớp khói sương mờ,
Ngồi mơ mộng, đầu thuyền cô lái nhỏ,
Khua trăng vàng trong nhịp hát đò đưa.

Đêm 30 tết - Mùa đông :
Quanh bếp ấm, nồi bánh chưng sùng sục,
Thằng cu con dụi mắt, cố chờ ăn,
Đĩ (*) nhớn mơ, chiếc váy sồi đen nhức,
Bà lão nằm, tính tuổi, sắp thêm năm.
(Tập thơ này đã được Tự Lực Văn Đoàn tặng giải khuyến khích - năm 1939).
 Xung quanh việc thể hiện tài năng,  còn có một số giai thoại: Bà và ông Nguyễn Bính đã từng yêu nhau, nhưng gia đình bà không ưa thói lãng tử của chàng thanh niên hay thơ. Nguyễn Bính tự ái và cái chính không thích cuộc đời gò bó vào khuôn khổ gia đình, đã ''đi hoang'' vào miền Trung, miền Nam và đi tới đâu thi sỹ đa tình, đào hoa họ Nguyễn bén ngay các mối duyên khác...
Thấm thoát thời gian trôi đi. Vụt cái đã mấy chục năm...Dường như bà vẫn mong ''Lãng tử hồi đầu '', khắc khoải chờ đợi... Cho đến năm 1955, Nguyễn Bính tập kết ra Bắc, Anh Thơ đã 37 tuổi, vẫn chưa xây dựng gia đình với ai. Mối tình với chàng thi sỹ họ Nguyễn còn sâu đậm trong tâm khảm của Nữ sỹ. Nhưng người xưa đã phung phí hết tình cảm của mình cho thơ và thiên hạ cùng những giai nhân gặp trên đường đời nên thi sĩ không thể nhóm lại đốm lửa trong đống tro tàn tình cảm, họ chỉ còn coi nhau như đôi bạn...
Năm 1957, bà viết bài thơ Cô Gái Việt - bài thơ như một trường ca ca ngợi người phụ nữ Việt Nam.  Đầu những năm 60, Nhạc Sỹ Lân Tuất (2) dùng bài thơ phổ nhạc thành bài hát cùng tựa đề, ca sỹ Trần Khánh - danh ca thượng thặng của miền Bắc thời đó - có giọng nam cao, khỏe - hát. Bài hát được đông đảo thính giả nghe Radio miền Bắc tán thưởng, được trình bầy ở các buổi liên hoan ca nhạc và chương trình các bài hát thính gỉa yêu thích của đài Tiếng Nói Việt Nam phát vào mỗi buổi sáng chủ nhật hàng tuần. Ca từ - lời thơ - bài hát Cô Gái Việt khiến người đọc, người nghe yêu thích, biết đến nử sĩ Anh Thơ. Mở đầu nhà thơ nói về quê hương Việt, nơi nổi tiếng có ’’Áo lụa Hà Đông’’:

Quê hương sông Nhuệ
Bãi đâu mươn mướt xanh bờ
Giặc mười năm chiếm đóng
Vắng bao nàng gái đẹp ươm tơ.

Khi giặc pháp tràn đến, những cô gái chỉ quen ngồi dệt lụa làm đẹp cuộc đời, bỏ khung cửi, nhuộm áo sen thành áo nâu - tham gia kháng chiến bảo vệ quê hương:

Và những người con gái 
Mười năm kháng chiến trường kỳ...
Khói  bếp rơm đã bay cùng khói súng
Khung cửi tơ vàng, lửa hồng lồng lộng
Tay ngừng thoi quăng tạc đạn giữ bờ dâu
Tấm áo sen lại thắm mầu nâu...

Giặc pháp đi, các cô lại trở về trồng dâu, nuôi tằm ‘’đưa thoi dệt lụa hàng vân’’:
Đến hôm nay chim trắng bay về
Khói bếp rơm lại phơi phới bên sông quê
Bờ dâu xanh lại,
và những người con gái
Lại trở về, đưa thoi dệt lụa hàng Vân...
...
Tôi người con gái Việt
Hôm nay mặc áo quê hương
Tôi đi trên đường tuyết trắng...
Mạc Tư Khoa nổi áng mây đào
Và đêm nay, tôi gặp
            những văn hào Sô Viêt
Những cô gai Nga đẹp như tiểu thuyết....
Và tôi muốn làm thơ
Kể chuyện bàn tay cô gái Việt
Mấy nghìn năm ủ kén ươm tơ...
...
Bà vẫn khắc khoải đợi chờ bạn thơ, bạn tình xưa, nhưng biến cố đã xẩy ra : Báo Trăm Hoa bị đóng cửa. Chủ nhiệm Nguyễn Bính được đưa về Ty Văn Hóa thông tin Nam Định. Vả lại ông dường như quên hẳn người bạn thơ, bạn gái năm xưa, lao vào các mối tình mới. Nếu không kể những cuộc ''trăng gió'', ''đi hoang'' ở Hà Nội, Bắc Ninh, Bắc Giang, Huế... trước đó. Dựa trên những đơm hoa kết trái của những cuộc tình, đến thời điểm Nguyễn Bính về Ty văn hoá - Thông tin Nam Hà công tác, ông đã có rất nhiều mối tình, nhưng có 4 lần ''Lỡ Bước Sang Ngang'' rồi đâm hoa kết trái :
- Thời gian ông vào Nam Bộ,  đã 2 lần có con với hai người đàn bà, họ đã sinh cho ông hai cô con gái đặt tên là Hồng Cầu và Hương Mai.
- Hồi ra Bắc tập kết, khi cùng làm Báo Trăm Hoa, Nguyễn Thi Sỹ sống với một cô gái trẻ, hai người lại có với nhau một con trai. Người mẹ trẻ kia đã chia tay nhà thơ, bỏ lại đứa con tên là Hiền. Với tính lãng tử, hoang toàng, Nguyễn thi sĩ làm sao mà nuôi, chăm được con trai. Trong một lần say rượu, Nguyễn Bính đã đưa bé Hiền - ấn vào tay cho một người không quen biết đi ngoài đường. Hiền bị thất lạc trong một trường hợp đặc biệt do bố say rượu gây ra... Tới khi Nguyễn Bính mất, đến hôm nay vẫn không có tin tức về Hiền. Nếu còn sống trên cõi đời, anh Hiền đã ngoài 50 tuổi. Lúc sinh thời mỗi khi nhắc lại chuyện này người cha đau khổ khóc rưng rức…(Chuyện này do ông Tô Hoài kể lại trong hồi ký Cát Bụi Chân Ai...)
Khi về sống ở Nam Định, Nguyễn Bính lại kết duyên với một phụ nữ khác... Nữ Sỹ Anh Thơ không còn có thể ''Khắc khoải'' đợi chờ nữa, Bà mới đi xây dựng gia đình. Biết tin, Nguyễn Bính làm một bài thơ gửi tặng ''Cố nhân''. Nhà thơ Trần Lê Văn, bạn đồng hương, bạn thơ của Nguyễn Bính  còn nhớ rõ hai câu của bài thơ kia :

... Chị sắp lên râu làm chức Mẹ
Anh mà xuống nước đóng vai Em...

Chị đi lấy chồng, có con... được lên chức Mẹ - đã đành.
Nhưng ''Chị'' mà lại lên (mọc) ''Râu'' thì thật ngộ nghĩnh !
Câu thơ phỏng theo cách nói cường điệu của dân đồng quê Nam - Hà : Người nào có niềm vui, tự hào về một sự kiện nào đó của mình, được bạn bè khích lệ : Cậu (cô...) dạo này lên râu qúa nhỉ  ! Cụ Nguyễn Khuyến người tỉnh Hà Nam, đã sử dụng câu ví von này làm đôi câu đối hỗn hợp Hán - Nôm, tặng một bác Nông Phu nghèo ở trong làng, có nghề kéo vó, đánh dậm :

Nhất cận Thị, Nhị cận Giang. Thổ địa tích tằng xương tỵ Ốc.
Giầu ở Làng, Sang ơ Nước. Nhờ trời nay đã vểnh râu Tôm.

Đó là cách nói vui, không có gì ác ý.
Còn ''Anh'' bị xuống nước đóng vai ''Em'' thì thật kỳ !
Nguyễn Thi sỹ đã chơi chữ : Vương Kiều Ân là tên thật. Anh Thơ là bút danh. Khi đi lấy chồng, bà phải xưng Em với Phu quân. Từ vị trí thiên hạ gọi ''Anh'', giờ phải xưng hô ''Em''... rõ ràng xuống nước, nhưng là sự xuống nước đáng mừng, câu thơ không phải châm chọc, chỉ là lời chúc mừng chân thật của một tri âm ! Thật tài tình, hóm hỉnh, ý nhị... pha lẫn hài hước đối với cố nhân !
Sau tập bức Tranh Quê, từ 1945 cho tới nay, Nữ Sỹ Anh Thơ cho xuất bản được một số thơ nữa kể cả văn suôi và một tập hồi kí dài (…). Tất nhiên vẫn là những bài thơ mang chủ đề ca ngợi đồng quê... song các bài thơ đó không gây được ấn tượng mạnh cho độc giả, như những bài thơ in trong tập Bức Tranh Quê xuất bản gần 70 năm trước !
Có một chi tiết làm người đọc trăn trở, ray rứt khôn nguôi :
Sau khi chấm dứt mối tình với thi sĩ Nguyễn Bính, Bà Anh thơ kết duyên với một bác sĩ  từ miền nam ra Bắc tập kết theo Hiệp Định Geneve quy định… Hai ông bà đều đã có tuổi nhưng rất hạnh phúc. Chỉ hiềm một nỗi : bà không sinh cho ông mụn con. Ông cũng kiên quyết không đi bước nữa để kiếm người ‘’giữ đế lư hương’’ - như nhiều người đàn ông khác. Nghe nói bà nhận một cô con nuôi đặt tên là Cẩm Thơ. Cô Cẩm Thơ có năng khiếu làm thơ. Đầu những năm 70 của thế kỉ 20, báo Tiền Phong giới thiệu Cẩm Thơ (Hà nội) Trần Đăng Khoa (Hải Dương) cùng Nguyễn Hồng Kiên (Hải Phòng) - trên báo, mỗi người một chùm thơ để minh chứng cho một tài năng trẻ. Người đọc có ấn tượng tốt về các vần thơ ‘’Trẻ con’’ của 3 người, . Bạn đọc thích thú tán thưởng chờ đợi các sáng tác tiếp theo của họ. Nhưng chỉ còn lại Trần Đăng Khoa, 2 bạn kia không thấy tăm hơi…
Gần hai mươi năm sau - đầu những năm tám mươi -  bộ ba đó chỉ còn lại Trần Đăng Khoa tiếp tục phát huy được ‘’năng khiếu’’ của mình, còn Cẩm Thơ và Nguyễn Hồng Kiên - ’’Lặn không sủi tăm’’. Sau này tôi đọc được tin cũng của báo Tiền Phong: Kiên đi Hợp tác lao động ở Liên xô (cũ) - hết sáng tác. Câm Thơ lấy chồng, theo chồng ra nước ngoài - cũng im tiếng luôn.
Hình như năm 2003 hay 2004 - nghĩa là trước khi Nữ sĩ Vương Kiều Ân - Anh Thơ về với cát bụi - tôi lại cũng một lần tình cờ, đọc đưọc trên báo Tiền phong bài viết của nhà văn nữ có danh trên văn trưòng Việt Nam. Chị viết về một nhóm những nhà thơ Nữ (như một câu lạc bộ). Nhà thơ kia buồn bã nói về cuộc sống của tiền bối Anh Thơ… Bài viết dài, có thể tóm tắt : Bà Anh Thơ ốm yếu do tuổi gìa, nhưng cái chính không có người săn sóc vì sống trong căn phòng nhỏ của khu tập thể Văn Chương với số tiền hưu trí ít ỏi, với sự thờ ơ cùa mọi người...
Nhưng đó là lẽ đời. Mọi người, mọi nhà và ngay cả đến đồng nghiệp dù có thông cảm với bà đến mấy cũng đành bó tay. Họ cũng đang phải căng ra lo cho bản thân họ còn chưa xong, ‘’hơi’’ đâu mà lo cho thiên hạ, dù đó là danh nhân của thiên hạ, một thời. Có chăng chỉ thân nhân mới lo cho chút ít, nhưng ông đã ’’đi’’ trước bà, bà không có con, chỉ có một cô con nuôi, lại ở xa… Bài viết làm người đọc xúc động đến chẩy nước mắt : Nữ sĩ tài hoa sống cô độc một mình rồi u uất, ra đi sau đó ít lâu!
Không biết trước lúc ra đi, bà có gặp được cô con nuôi mà đã một thời được bà nâng niu, chắp cách cho những vần thơ của cô - không ?
Thế thái nhân tình là như thế đó !
Thưong tiếc thay một đời tài hoa !
Các cụ ta nói : Tài sắc - Hồng nhan - bạc mệnh - thật không sai !

Xuân Mậu Tý 01. 3. 2008

(1) Từ này chỉ mang nghỉa là bé gái, cũng như thằng Cu là bé trai. Nếu nhà sinh 3 đứa đều là gái thì bố mẹ gọi Đĩ nhớn, Đĩ giữa, Đĩ con...Thời xưa bà con nông dân vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, sinh con ra lúc bé thường gọi tên con mộc mạc như vậy.Vì theo tục lệ mê tin, nếu đặt tên con đẹp, hay bị các quan sớm bắt đi (Chết)
(2) Con trai Nhà Giáo Nhân Dân Nguyễn Lân. Gíao sư Âm nhạc, Nghệ sĩ Công Huân Liên bang Nga. Theo  Ca sĩ KH - NS Lân Tuất sáng tác bài này trước khì đi du học ở Liên Xô…

Bài Lê Xuân Quang/ tác giả gửi bài
nnb vi tính giới thiệu

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét