Thứ Hai, 12 tháng 11, 2012

Mái rạ xưa qua bài thơ



LỞI RU DƯỚI MÁI NHÀ
CỦA NGUYỄN NGUYÊN BẢY


Cái mái rạ dai dẳng úp lên cuộc đời người nông dân từ đời ông cho chí đời cháu ngay từ khi cất tiếng chào đời cho đến lúc về với đất. Mái rạ nghèo ấy, bây giờ không còn thấy ở các miền quê Bắc bộ nữa, nhưng cách đây trên chục năm, ở thế kỷ trước chỉ cần đi ra khỏi cửa ngõ thủ đô chừng 5- 10 cây số là gặp nhan nhản những mái rạ lấp ló sau lũy tre làng mờ xa, hiu hắt buồn nằm hai bên đường quốc lộ số 1, quốc lộ số 5 dội hoang vào tầm mắt, tầm nhìn của chúng ta. Và cái làng, tên chung để chỉ cấp hạ tầng hành chính của một xã - nói hẹp; nói rộng thì cái làng thuộc về một huyện, rộng hơn - nó cũng thuộc một tỉnh, một nước (làng nước), cho dù ta đi đâu, ở đâu trong tâm hồn mỗi người luôn có một cái làng canh cánh mang theo trong lòng. Cái làng của lòng mình ấy, gồm cây đa, sân đình, mái chùa cong cong những đầu dao hình rồng, có lời ru của mẹ, của bà và của chị hằng “Ru (ta) dưới mái nhà” rơm rạ xưa ấy:? Nơi đâu những lời ru/Nhiều bằng làng ta nhỉ/ Dưới mái nhà rơm rạ/Tâm sự ru vơi lòng”
Dưới mái rạ thời chiến tranh trai tráng “còn ai đâu”, trơ lại phụ nữ thui thủi nỗi chồng đi biền biệt ngay từ tuần trẳng mật bỏ lại bao công việc đồng áng, việc nhà cho người phụ nữ gánh vác đến đận “biếng cả việc gương lược” làm đẹp cho mình. Mà chồng đi vắng thì người phụ nữ làm đẹp mà chi? Làm đẹp cho ai ngắm? Những đêm mưa phùn gió bấc, ôm con, ru cho con ngủ để vơi nỗi lòng thương nhớ người xa. Lời “Tâm sự ru với lòng” ấy:

LỜI RU DƯỚI MÁI NHÀ

Nơi đâu những lời ru
Nhiều bằng làng ta nhỉ
Dưới mái nhà rơm rạ
Tâm sự ru vơi lòng.

Em biền biệt xa chồng
Ngay từ tuần trăng mật
Chị biếng cầm gương lược
Trai làng còn ai đâu.

Lẩm bẩm những nguyện cầu
Bà lần xin tràng hạt
Đừng bắt cháu bà chết
Tuổi dại dưới trời bom.

Chẳng sáng nào bến sông
Bóng cha không còng gậy
Tay cha rối rít vẫy
Bưu tá cười không thư.

Tất cả những lời ru
Cối lòng nước mắt nén
Lúa vẫn hai mùa chín
Khoai vẫn hai mùa trồng.

Cò lội trắng mom sông
Sông mang lời ru chảy
Những câu ru nhang cháy
Dưới trời bâng khuâng hương.

Nguyễn Nguyên Bảy
(Một vài Trống canh)

Đọc một hơi hết bài thơ để cảm và thấm. Đọc lại lần hai, lần ba để ngấm. Ngấm vào cảm xúc bao nhiêu thêm lòng day dứt, da diết thương về một thời; thương thầm những thân phận vọng phu bằng xương bằng thịt, hoá đá niềm khát khao dưới những mái nhà tranh  một lòng thuỷ chung ngóng đợi. Dưới mái nhà rơm rạ đơn sơ, còn nữa, những lời: /Lẩm bẩm những nguyện cầu/Bà lần xin tràng hạt” Và /Chẳng sáng nào bến sông/Bóng cha không còng gậy/Tay cha rối rít vẫy/ Bưu tá cười không thư.
Thế đấy, đất nước ta đã có thời như thế đấy. Người vợ xa chồng nhớ nhung ôm chặt con vào lòng, gửi lời ru vào đêm thanh vắng, những người bà thì hằng đêm lần tràng hạt lẩm bẩm nguyện cầu trời Phật: Đừng bắt cháu bà chết/ Tuổi dại dưới trời bom” . Người cha thì bóng còng như cây gậy sáng sáng ra bến sông chờ bưu tá đi qua xem có  thư con từ chiến trường gửi về. Gặp được thì “Bưu tá cười không thư”. Mong bức thư con gửi vượt ngàn dặm núi sông, khi đến được tay người cha có khi phải năm, bảy tháng thì tình hình đã khác. Với họ, có còn hơn không! Hy vọng và hy vọng, người nông dân dưới mái rạ một thời từng đau đáu đợi chờ niềm hy vọng như vậy đấy, vì đó là cục cưng - cục vàng của đời họ. Nhà thơ không nói quá, tôi - người đọc thơ hôm nay cũng không liên tưởng quá ra mà thực tế trong tâm trạng người cha, người mẹ Việt Nam nào chẳng thế, con cái là cả một tài sản, ví với cục vàng là còn nhỏ, phải là núi ngọc mới đúng tinh thần, đừng coi thường nhau, “con vua vua yêu dấu/ con tôi xấu tôi yêu”. Những người trẻ bây giờ “ru con” bằng băng đài, bằng đĩa CD rót lời ca sĩ ngọt ngào vào tai trẻ nên họ biệt gì về lời ru buồn ngày xưa?
Nhà thơ Nguyễn Nguyên Bảy có nhiều bài thơ viết về người mẹ người cha Việt Nam bằng những khúc ru khá hay: “Sông cái mỉn cười, Bài ru trằn trọc, Cuối ru, Lời ru dưới mái nhà…” mênh mang nét buồn nhân thế và… cũng đậm chất nhân văn. Tôi chủ quan nói vậy ai không tin thì tìm đọc  “toà núi” thơ Nguyễn Nguyên Bảy in năm 2010 thì thấy.

Một ngày thu tháng chin 2011
Hoàng Xuân Hoạ

Nguồn: hoangxuanhoa.blogspot.com

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét