Thứ Tư, 21 tháng 11, 2012

Lê Xuân Quang viết về Nhà thơ Chính Hữu


CHÍNH HỮU : Ngọn đèn đứng gác - đã tắt !

Lê Xuân Quang


(Tưởng nhớ thi sĩ CHÍNH HỮU – Tác gỉa Đồng Chí , Ngọn Đèn Đứng Gác – 5 năm sau ngày ông đi vào cõi vĩnh hằng (27.11.2007 – 27.11.2012), 86 năm ngày sinh (15.12.1926 – 15.12.2012)
Tôi đã định viết về nhà thơ Chính Hữu, tác gỉa của 2 thi phẩm nổi tiếng: Đồng chí và Ngọn đèn đứng gác. Nhưng rồi cứ lần nữa mãi cho đến khi ông ra đi vào cõi vĩnh hằng mà tôi vẫn không thực hiện được ý đồ. Một cảm gíac tiếc nuối dào dạt trong lòng. Chính Hữu là nhà thơ để lại trong tôi kỉ niệm khó quên. Ông viết it hơn các nhà thơ cùng thời nhưng lại được người yêu thơ nhớ tên và dành cho sự ngưỡng mộ, nhất là tầng lớp thanh niên, sinh viên, học sinh. Đồng Chí được tác gỉa viết từ hồi kháng chiến chống Pháp, nhạc sĩ Minh Quốc lấy lời thơ làm ca từ cho bản nhạc của ông , phổ biến rộng rãi ở miền Nam trước năm 1975, còn ở miền Bắc, mãi sau 1975 – ca khúc Đồng Chí của Minh Quốc mới được người yêu nhạc biết đến.
Ngọn Đèn Đứng Gác ra đời trong chiến tranh chống không quân của Hoa Kỳ (khoảng năm 1965 – 1967). Tôi có một kỉ niệm sâu sắc về bài thơ này, có thể nói – nhờ NĐĐG mà tôi thoát hiểm. Câu chuyện như sau:

Cuối năm 1967, Mỏ cọc 6 cho tôi đi học đại học Xây dựng. Dạo đó máy bay Mĩ ném bom, đánh phá vùng Mỏ ác liệt trên suốt chặng đường dài hơn 30 cây số từ Cửa Ông đến Bãi Cháy – Hồng Gai. Lường trước gay go, từ Cẩm Phả, khởi hành lúc sáng sớm, để đi vòng qua đường 18b (tránh nhà máy điện cọc 5 và thị xã Hồng Gai). Thế mà vẫn bị máy bay Mỹ đánh phá cầu trên đường 18b, phải tránh, trú… mãi 10 giờ đêm mới đến ngã ba Yên Lập (nơi giao nhau của 2 quốc lộ số 10 và 18) – để đến tập trung ở Quế Võ (bây giờ thuộc tỉnh Bắc Ninh).

Trời tháng chin mới vào Đông, đầu tuần trăng – tối như bưng. Đang lưỡng lự tìm cách đạp nhanh hi vọng vượt qua thị xã Uông bí để đến Đông Triều trứơc 12 giờ khuya. Thấy quán bên đường còn le lói ánh đèn. Phần thì mệt, phần khác lúc ra ngã ba Giếng Đáy, loáng thoáng nghe nói nhà máy điện Uông Bí sáng nay bị đámh phá thiệt hại rất nặng. Tôi quyết định vào hỏi thăm. Đến gần, nhận ra đây là chiếc chòi gác. Ngoài cửa treo chiếc đèn Chai, trùm bên ngoài là một chiếc chụp kín vuông bốn cạnh – giống chiếc đèn của người gác đường sắt. Ở hai hướng ngược nhau, mặt kính của chụp đèn đưọc sơn hai mầu Xanh – Đỏ. Mầu xanh – báo hiệu vùng đất yên bình, an toàn. Mầu đỏ cảnh báo bắt đầu vào vùng nguy hiểm. (nhìn thấy mặt kính đỏ hướng về phía mình). Chưa kịp lên tiếng, từ trong chòi gác một bóng người đi ra, cất tiếng hỏi: Đồng chí định đi đâu? Không để cho tôi trả lời, người kia tiếp: Yêu cầu quay lại, đường này đã bị máy bay địch đánh phá làm tắc nghẽn…
- Thưa … tôi cần phải đi ngay vì…
- Không thể, làm gì còn đường mà đi.
Thấy tôi tỏ vẻ thất vọng, người kia hạ giọng: Vào đây tôi nói cho biết. Giọng rất thân tình nhưng toát lên vẻ cương quyết. Thời chiến, lại là lời của người có trách nhiệm, tôi miễn cưỡng đi vào. Dưới ánh đèn tù mù, xanh lét, nhìn thấy người đàn ông trung niên, gầy gò, so vai – trông như người nghiện – trạc trên dưới 40 tuổi. Điều đập vào mắt: Anh bị thọt – tôi nghĩ ngay và đóan – chắc anh là thương binh thời chống Pháp.
Không gian chiếc chòi rộng chừng 3 mét vuông. Chủ kéo chiếc ghế ngựa từ trong gầm giường cá nhân mời khách ngồi, đoạn lôi tiếp từ gầm bàn ra chiếc ấm tích, rót đưa cho khách một bát. Khi tôi nhận bát nước nóng hổi, toả mùi vối cay cay, thơm lừng, anh tiếp: Làm hớp nước vối nóng cho ấm bụng đã.
Hớp ngụm, nhưng lòng nóng ran không phải vì nước nóng mà vì sự lo lắng nên vội vàng giải thích: Thưa đồng chí, ngày kia tôi phải nhập học, nếu hôm nay không đi, đến chậm sẽ lỡ buổi khai trường… Có còn cách nào khác để đi không. Hay là đi vòng tránh Uông Bí?
- Không. Tôi đã nói rồi. Đến đây ’’Người thương binh’’ dừng lại, chậm rãi nhồi thuốc vào nõ điếu, bật lửa. Khách không kìm được nôn nóng, bật ra: Vì sao cơ?
- Vì không có đường đi – người kia nuốt khói thuốc, chững lại đoạn tiếp: Đường 18 đi qua thị xã Uông bí đã bị cày xới biến thành ao hồ. Điều quan trọng: Cầu vào thị xã đã bị bom đánh sập, sông ở đoạn này rộng, sâu. Còn đi vòng ư? Lại càng không được vì nếu muốn, phải về Núi Đèo (Thủy ngyên), ra đường 5 rồi về Hải Dương sang Nam Sách về Phả Lại. Mua đường, xa gấp ba!
- Thế không có đường đi vòng gần hơn à?
- Có, đi qua đập tràn rồi xuyên qua đường nội bộ của nhà máy điện ra phía của Bắc. Nhưng gay nhất, sau khi qua đập tràn, con đường này cũng đã bị hủy hoại. Trời tối như thế này, cậu – anh đổi cách xưng hô – làm sao tìm được lối ra khỏi bãi bom, ngay một mình vượt qua đoạn này cũng khó huống hồ còn xe đạp và lỉnh kỉnh đồ dùng… mà – anh ngừng lại như lấy hơi, tôi im lặng nghe chăm chú, anh tiếp: Lạc vào bãi này rất nguy hiểm. Vẫn còn bom nổ chậm, bom hẹn giờ, bom từ trường, cả bom bi , điều quan trọng, nếu không ra kịp tước 6 giờ sáng mai – thì nguy…
- Thế… thế – tôi hoảng hốt không diễn tả tiếp được ý nghĩ, chỉ ấp úng… đột nhiên anh nổi cơn ho khan, dài. Tôi không chú ý vì đang maỉ suy nghĩ tìm cách vượt bãi bom… Khi dứt cơn ho, anh nhìn thẳng vào tôi, bảo: Tốt nhất cậu hãy ngủ lại đây. Sáng sớm mai vượt đập tràn. Phải đi nhanh trong vòng 30 phút trước khi bọn ’’Qụa sắt’’ tới quẳng thần chết xuống. Chúng đang quyết tâm hủy diệt nhà máy điện.
- Nhưng nghỉ ở đâu? Chả lẽ lại chiếm chỗ nằm của anh trong chòi này?
- Yên trí. 15 phút nửa tôi thay ca, cậu về nhà tôi nghỉ tạm, nhà cũng gần đây thôi. Anh dứt lời lại nổi cơn ho rũ rượi. Tôi nhìn anh lúng túng suy nghĩ xem có thể giúp được gì… có thể anh lạnh vì chỉ mặc phong phanh một chiếc áo sơ mi, chiếc vỏ áo bông xanh cũ, bạc mầu vẫn vắt trên thành giường, tôi tiến đến cầm áo đưa – anh nhận, cùng lúc nhớ ra: Dầu Cao Hổ nóng sẽ chữa ho khá hữu hiệu, vội lục ba lô đưa cho anh hộp cao còn mới nguyên mà Mẹ chuẩn bị cho trưóc lúc lên đường rời Mỏ - bảo: Em biếu anh để chống rét, xoa vào họng sẽ hết ho. Em còn hộp nữa.. ’’Anh Thương Binh’’nhận, ngước mắt nhìn tôi đầy vẻ biết ơn.
Ngoài cửa vang lên tiếng hỏi: Xe của ai đây, hả đồng chí Dậu?
Tiếng nói dứt xuất hiện một ông gìa cao gầy, đầu tóc bạc phơ. Dậu đã ngừng ho đứng dậy, đáp: Của chú này. Cậu ta muốn vựơt bãi bom, tôi không cho đi… bác chú ý: đừng cho bất cứ ai đi qua thị xã vào lúc này nhé. Tôi đưa cậu ta về nhà nghỉ qua đêm, sáng mai cậu ấy phải đến trường nhập học.
- Đồng chí yên tâm. Tôi sẽ làm theo đúng mệnh lệnh. Ông gìa giở sổ trực ban, ghi… rồi quay sang tôi, nheo mắt, hỏi: Chú làm gì mà vội đi thế. May mà thủ trưởng đã kịp giữ lại… nếu không sẽ phải loay hoay trong khu vực này đến sáng may ra mới ra khỏi. Mà đến sáng thì… thôi, về nghỉ đi, sáng mai qua bãi bom sẽ rõ tất cả.
Anh Dậu không để cho tôi mè nheo, con cà con kê – lôi đi.
Chúng tôi đi trong bóng đêm. Hơn nửa giờ sau tới ngôi nhà nằm ven sườn đồi. Anh thắp đèn. Đặt trong chiếc chụp làm bằng mo cau để ngăn ánh sáng. Căn nhà tồi tàn, trống huếch trống hóac. Như đoán được ý khách, Dậu giải thích:
- Nhà mình và 2 cháu sơ tán về quê. Tớ ở môt mình để dễ xoay sở. Để tớ làm chút gì ăn cho ấm bụng đã. Dứt lời anh đi xuống bếp, mươi phút sau bưng lên rá khoai lang luộc vẫn còn âm ấm, tôi cũng mở túi lấy ra gói xôi lạc, gói muối vừng mẹ chuẩn bị cho đủ ăn đường trong 2 ngày. Xôi lạc, khoai lang luộc chấm muối vừng rồi uống nước vối đặc – thật hợp khẩu vị. Hai anh em ăn mỗi thứ hết một nửa, anh Dậu gói nắm xôi lại cùng mấy củ khoai lang bảo tôi bỏ vào bọc để ngày mai ăn đường. Hai anh em tranh thủ đi ngủ.
Cả ngày luồn lách, tránh né… bây giờ mệt, đặt lưng là ngủ ngay.
Đang mơ màng, thấy có người lay động, tôi mở choàng mắt: Ngoài trời đã mờ sáng! Vùng dậy ra vại nước đánh răng rửa mặt, xong trở vào, thấy anh Dậu đang ngồi chờ bên bàn, hối thúc: Cậu lên đường ngay! Làm sao phải vượt qua đập tràn rồi cứ chiếu theo cột ống khói – hướng cổng ra – vượt đoạn đường nội bộ này rồi đạp nhanh, thoát khỏi địa phận thị xã Uông Bí càng nhanh càng tốt.
- Mà này, cậu mang nhiều thế kia sẽ mệt. Tốt nhất: Gói gọn vào chiếc ba lô đeo lên vai. Khi cần còn phải vác cả xe và… chạy cho nhanh. Cái gì không cần thiết vứt bỏ kẻo lùng nhùng với những thứ này, máy bay đến không xử lí kịp sẽ rất nguy hiểm.
Nghe lời Dậu, tôi vất lại những cuốn tiểu thuyết, tập thơ, bếp dầu, can dầu… chỉ mang quần áo, một nắm xôi chống đói còn bỏ lại có dễ gần chục kí. Thấy vậy Dậu ái ngại: Cậu thông cảm… tôi không có ý…
- Ôi anh! Em hiểu!
- Thế thì lên đường đi. Theo quy luật đánh phá mấy hôm nay: Cứ khoảng từ 7 đến 8 giờ sáng, bọn nó từ ngoài biển lao vào trút bom. Giờ này không ai dám lảng vảng quanh thị xã.
Tôi xiết chặt tay người thương binh. Anh Dậu ôm lấy tôi, vỗ vào lưng như người anh chia tay đứa em. Mấy chục giây sau, anh buông ra thúc tôi lên đường. Tôi không ý thức được cuộc chia tay với người bạn mới quen nhau có một đêm, mà sau này tôi còn có dịp kể lại về con người… về Ngọn Đèn Đứng Gác ở ngã ba Yên Lập này…
Nhưng đó là 6 năm sau.
Còn bây giờ: Sau khi đã nai nịt lại cho gọn nhẹ, đạp thoải mái. Chỉ 10 phút sau đã tới đập tràn của nhà máy nhiệt điện Uông Bí. Đập không bị hư hỏng nặng nên chỉ một loáng đã tới bờ bên kia. Khi dắt xe lên mép đường. Tôi giật thót người: Trước mắt, không có dấu vết gì của con đường, hay khung cảnh của một nhà máy điện , mà chỉ còn các hố bom, miệng rộng chừng vài ba chục mét. Hai bên các đụn đất do bom nổ gom lại, nhô cao che mất tầm nhìn. Ở cạnh mép các hố bom những mảng tường Bê tông đổ nghiêng ngả, vỡ toang hoác. Nhớ lời Dậu, tôi vác chiếc Sputnhich lên vai , men theo các hố bom, chiếu thẳng cột ống khói mà đi – hay nói đúng hơn là chạy. Mép hố bom có các đụn đất thịt, trơn ướt làm tôi mấy lần ngã dụi nhưng lại nhanh chóng gượng dậy và lao… lao…
Trời sáng dần…
Có lẽ khoảng hơn 7 giờ…
Một cơn gío thoảng, khiến tôi rùng mình: Mùi khét của cao su cháy, mùi hôi thối do các thi thể của các chiến sĩ, công nhân của nhà máy bị bom, hi sinh từ mấy hôm nay, chưa được khai quật – bắt đầu phân hủy mùi tỏa lan. Bây giờ mới thấm lời của ông gìa lúc thay gác cho Dậu... Đột nhiên các thứ mùi và sự ghê tởm, sự khiếp sợ biến bay, chỉ còn lòng quyết tâm đi, chạy thoát vùng đất tử thần này…
Tôi ghé vai vác chiếc xe đạp nặng chừng hơn hai chục kí và chiếc ba lô hơn chục cân – chạy băng băng… ra khỏi vùng bãi bom, đã có đường, tôi đạp xe như một tay đua xe đạp thực thụ trên chiếc xe đua của Liên Xô – ở đoạn nước rút…
Chợt như có gì tông mạnh vào lưng, tôi cùng chiếc xe lao vào vệ đường ngã dúị. Cùng lúc tiếng nổ vang lên. Ngoảnh lại phía sau – chỉ cách nơi tôi ngã chừng mấy trăm mét: Nhà máy điện Uông Bí ngập chìm trong khói bom và tai tôi ù đi vì tiếng nổ liên hồi – như có cả một dàn trống đặt cạnh tai do nhiều người cùng gõ… Đã có kinh nghiệm, chờ cho lượt bom dứt, tôi nhỏm dậy, dựng xe và đạp… đạp… cho tới khi cách xa thị xã Uông bí hơn cây số mới yên lòng. Lúc này lời nói của ông gìa bên ngọn đèn dầu cảnh báo lại vang lên, rồi liên tưởng, nhớ lại khoảnh khắc tối qua:
Nếu tôi không nhìn thấy ngọn đèn dầu treo ở chiếc chòi gác của dân quân làng Yên Lập mà vào…
Nếu tôi không được anh thương binh Dậu tốt bụng cho ngủ đêm chỉ bảo cặn kẽ… thì đến giờ sự thể sẽ ra sao?
Ôi! ngọn đèn dầu hỏa trong đêm khuya, thời chiến tranh chống không lực Hoa Kì – mới tuyệt diệu làm sao. Nơi nào giầu thì dùng đèn bão. Nơi dân cư nghèo thì đèn tự tạo: Phao dầu làm bằng chai hay lọ mực Cửu long, bóng đèn làm bàng cái chai ¾ lít, cắt đáy và cắt cổ, chụp bên ngoài để ngọn lửa khỏi tắt dù mưa gió hay giông bão đèn dầu vẫn soi đường cho con người trong đêm thâu…
xxx
Tôi đến trường an toàn, nhập học đúng hạn.
Vào cuối học kì 1, một buổi trưa, sang nhà mấy cậu học giỏi hỏi bài. Thấy có 5 người – 1 nữ, 4 nam – vây quanh chiếc Radio tự lắp, đặt trên chiếc bàn đóng ghép bằng tre . Họ đang học hát theo hướng dẫn của phát thanh viên đài TNVN bài Ngọn đèn đứng gác. Tôi ghé vào va cùng học theo: Bài Ngọn Đèn Đứng Gác do nhạc sĩ Hoàng Hiệp lấy bài thơ của Chính Hữu làm ca từ cho ca khúc của mình. Chúng tôi học say sưa và thuộc ngay.
Tổng kết học kì nhóm văn nghệ lấy ngay ca khúc NĐĐG làm tiết mục trình diễn. Hết học kì I, (đầu năm 1968), vào học kì 2, chúng tôi được tập trung ở thôn Quế Ổ học quân sự 1 tháng. Thấy gíao phụ trách khóa học là Đại úy Bắc Việt – Trưởng phòng Quân sự của trường . Theo thông lệ, kết thúc khóa học, lớp mở liên hoan (cả lớp góp tiền mua con chó giết thịt và rượu ngang loại ngon do dân trong làng – nấu). Đêm – tổ chức văn nghệ Cây nhà lá vườn – ở trong Hội trường của Hợp Tác Xã. Gần 100 sinh viên và mấy trăm dân làng tập trung dưới ánh đèn Măng sông nghe Sinh viên và thầy giáo biểu diễn. Đại úy Bắc Việt cao, gầy, cầm cây Guitar vừa đàn vừa hát Giọng ông cao, vang xa… nghe nói trước đây ông là ca sĩ trong đoàn văn công Tổng Cục Chính Trị…Tại buổi liên hoan văn nghệ, lần đầu tiên tôi được nghe Đại úy trình diễn những ca khúc nổi tiếng thời tiền chiến… ông hát Ngòn Đèn Đứng Gác theo một phong cách đặc biệt: Hát nhưng có đoạn như đọc, giãi bày thơ… một cách trình diễn mà chúng tôi cho rằng chỉ có Đại úy – Ca sĩ – Bắc Việt mới tạo được phong cách này. Chúng tôi đề nghị ông hát NĐĐG tới 4, 5 lần… ông vui vẻ đáp ứng. Bởi vì những ca khúc của Hoàng Hiệp thường lấy Thơ phổ thành lời ca. Nhạc sĩ Hoàng Hiệp sau khi phổ bài Trường Sơn Đông – Trường Sơn Tây của Phạm Tiến Duật giờ đến lượt Ngọc Đèn Đứng Gác, dư luận tuổi trẻ đã tôn vinh Hoàng Hiệp là ’’Vua phổ thơ’’. Trong nhạc của Hòang Hiệp có Thơ, còn Thơ của Chính Hữu, của Phạm Tiến Duật đã được Nhạc của Hoàng Hiệp nâng, tôn – lên, tạo cảm xúc rạt rào làm lay động lòng người! Đêm đó, dù đã gần 40 năm trôi qua , Ngọn Đèn Đứng Gác vẫn đọng lại trong tôi, có lẽ chẳng bao giờ phai…
Phải nói lại hồi kết của câu chuyện NĐĐG này:
Trước tết năm 1973 – Hiệp định Paris được kí kết, tôi kết thúc khóa học, tranh thủ về thăm nhà trước khi đi nhận công tác mới. Cũng có thể đi tầu thủy hay xe khách, nhưng phải đi vòng qua Hải Phòng. Tôi quyết định đi xe đạp. Đã hết chiến tranh không còn lo máy bay đánh phá, tôi đạp xe qua thị xã Uông Bí tới ngả ba Yên Lập, quyết định ghé vào thăm anh Dậu – người anh, người bạn một đêm của tôi – 6 năm trước. Không còn nhớ ngôi nhà anh ở đâu vì đêm đó trời tối, đành tạt vào khu vườn, nơi họ đã từng đặt trạm gác – hỏi thăm. Hỏi mấy người ở kế bên vườn, không ai biết Dậu. Đang thất vọng, rất may một người cùng trong trung đội dân quân với anh Dậu khi xưa đi qua, cho biết: Vào một đêm cuối năm 1970, khi đang làm nhiệm vụ trực chiến, máy bay Mĩ phát hiện mục tiêu qua ánh sáng của ngọn đèn dầu (dù đã được ngụy trang rất kín)… chúng bắn, rốc két – bom định hướng – nổ ngay bên cạnh chòi gác… Anh Dậu đã hi sinh . Ngừng một chút người kia ngần ngư gijng đuộm thê lương : Tội nghiệp anh ấy – qủa Rốc két nổ gần thi thể tan nát chỉ cofncasi đầu và cái chân tật !
- Vậy mồ anh ấy chôn ở đâu? – tôi hỏi.
Người kia dẫn tôi tới ngôi mộ nằm ở khu ruộng cách ngả ba Yên Lập không xa. Nấm mồ trông hoang dại, đất đắp thấp, vài cây Sim loè tòe. Anh Dũng chỉ ngò đất, xót xa: Đây là ngôi mộ của Dậu. Trong quan tài chỉ có mấy mảnh thi thể…
Tôi tiến tới, qùy, phủ phục xuống ngôi mô vái nhiều vái. Giòng nước mắt trào đẫm trên má. Hình ảnh của đêm xưa lại hiện ra: Ngọn đèn chai… trạm gác… bát nước vối nóng hổi… củ khoai lang luộc và những lời ân cần dặn dò tôi trước lúc chia tay. Tôi thầm thì: Anh Dậu ơi! Em đã về đây…rồi đột nhiên trong tôi vang lên tiếng hát của Đại úy Bắc Việt:
Trên đường ta đi đánh giặc
Dù về Nam hay ta lên Bắc
Ở đâu
cũng gặp
Những ngọn đèn dầu chong mắt suốt đêm thâu
Ôi những ngọn đèn không bao giờ nhắm mắt
Như những tâm hồn không bao giờ tắt…
Vâng, giờ thì ngọn đèn – đã tắt!
Người thắp ngọn đèn và cả người đứng gác cũng đã nhắm mắt rồi…
.
Berlin – Chiều 28.11.2007 – 5.11.2012
LXQ
Tác giả gửi bài/ nnb vi tính giới thiệu

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét