Thứ Năm, 16 tháng 8, 2012

Thơ Vũ Bình Lục


Thơ VŨ BÌNH LỤC



CAO CHU THẦN, ĐOẠN KẾT
Nương theo ý thơ Cao Bá Quát

Được thả về quê làm thầy đồ
ta được tái sinh
vứt phăng cái chức quan còm
vướng bận bao năm
chẳng may vướng vào đám gai mắc cỡ
mới trắng mắt ra
sự thật đáng buồn hơn ta nghĩ
ở đời bọn tiểu nhân xênh xang
nhấp nhô như hoa dã quỳ vàng
Ôm cái lý lịch trích ngang
có một tý đen lại kèm tý đỏ
nghêu ngao rao bán khắp gầm trời
mong được làm người chân thật
về quê
muốn được bình yên
đọc sách dưới đèn
nhìn ngắm núi sông diễm lệ
nâng chén rượu mời gió mời trăng
say ngất ngưởng ghẹo bông hồng đỏ mặt
người đời bảo ta ngông
lại bảo ta là ông Thánh Quát
Thơ đọng lại trong lòng người ta
chẳng phải ở cái tình ư?
không có cái tình chân thật
chút mẹo vặt ngữ ngôn gọt đẽo
chẳng qua cũng chỉ là trò phù phiếm
ích gì!

Thơ Cao nặng trĩu tình đời
thẳm sâu hồn sông núi
lại véo von thân phận
ngắm ông mà nghĩ ngợi
kẻ tri âm rơi nước mắt
Chao ôi! Tài tử đa cùng
muốn dựng sông Hương làm kiếm sắc
nghêu ngao hát khúc Trà giang thu nguyệt ca
đã đi là đi phắt
việc đời nỗi buồn nặng hơn nước mắt
dân đen cùng quẫn
vua chúa lo đắp bạc đắp vàng nơi chứa xác
quan tham nhiều như cỏ hoang
Vạn niên ấy là Vạn Niên nào(*)
xương trắng phơi đầy bãi cát?

Ai bảo Cao sinh bất phùng thời
chiếc mũ nhà Nho như chiếc vòng kim cô
thật đáng giận!
Thương tiếc tuổi hoa chết gục bên đường
hay tái sinh làm hoa khác?
nghìn bài thơ chẳng cứu được sinh dân
trượng phu ngang tàng muốn bẻ gãy chấn song vũ trụ
vung kiếm xông thẳng lên bầu xanh đòi tự do
thành bại tại trời!

Dạo quanh mấy lượt hồ Tây
trèo lên tháp chuông chùa Trấn Quốc
nhìn mãi chẳng thấy ngôi nhà Cao năm xưa
dường nghe văng vẳng tiếng ngâm thơ
trong mờ mịt xương giăng chiều Tây Hồ…

Ca dao thời Nguyễn: “Vạn Niên là Vạn Niên nào
Thành xây xương lính, hào đào máu dân”

Ở BIỂN HỒ NHỚ CAO BÁ QUÁT

Một đời chỉ biết cúi mình bái lạy hoa mai
Cao Chu thần
ngạo nghễ mang gông giữa rừng lang sói
khư khư giữ mình trong
không cúi ngửa uống dòng sông đục
chỉ lo tóc bạc về quê
áo gấm nhọ cố hương
một mình ông
ngắm Trường giang như kiếm lập thanh thiên
nâng ngọn giáo bất bình khuấy vào nghiên mực
trượng phu ngang tàng
muốn tháo gông làm thang bay vút vào mây thắm
rắc tiếng cười gieo mai nở khắp nhân gian
xoay bạch ốc lại lâu đài
ném thanh khâm sang cẩm tú (*)
sừng sững giữa trời
trái tim lớn đơn côi!...

Muốn lấy nước Biển Hồ rửa nỗi đau người trước
ước gì có sức mạnh thánh thần
bê Biển Hồ làm nghiên mực
dâng người
vung giáo rạch trời xanh…
Gia Lai 2005
(*): Những câu in nghiêng-Ý thơ Cao bá Quát


VIẾNG MỘ TỔ TIÊN

Người đà xa lắc xa lơ
cháu con nay biết bến bờ nào đâu?
dòng đời như nước chảy mau
mấy trăm năm đã nhuốm màu phôi pha
chữ trong gia phả nhạt nhòa
người từ dâu bể mà ra quê này
hay người đánh giặc nơi đây
giặc tan đọc sách cấy cày làm vui?
Trời xanh xanh đến ngậm ngùi
mồ xanh nước mắt lấp vùi chuyện xưa
hỏi người, xao xác lau thưa
vang vang như tiếng gươm khua trống dồn
tiếng xưa lạnh buốt trong hồn
nén nhang vái tổ còn thơm đấy chiều…


CHIỀU HỒ GƯƠM
NHỚ THẦY TỰ THÁP

Chiều thu tha thẩn bên hồ
bàn chân bến thực hồn mơ bến nào
dường nghe tiếng trẻ lao xao
tiếng thầy Tự Tháp xanh vào văn chương(*)
trường xưa lối cũ chẳng còn
đài nghiên tháp bút chấm son lên trời
trăm năm còn mấy mặt người
hồ xanh loang tiếng nói cười bình thơ
bao giờ cho đến ngày xưa
cắp ô đứng cửa mà thưa kính thầy…

(*): Cụ Nghè Vũ Tông Phan từ quan về mở trường dạy học bên hồ Gươm,
đào tạo nhiều nhân tài cho đất nước.

BÊN DI CHỈ HOÀNG THÀNH
Xẻng đất từ tay người công nhân thời hòa bình tung lên
Câu chuyện trăm năm ngàn năm dần hiển lộ
Hoàng thành xưa
Mưa gió lấp vùi
Binh lửa bao nhiêu năm
Cung điện đền đài thành tro than trầm tích
Những họa tiết hoa văn gốm sứ dường đang mỉm cười
Mang mang hình hài trĩu tay nhà khảo cổ…

Cha ông xưa đánh giặc thế nào
Yêu và ghét thế nào
Dựng xây thế nào
Sử sách chép sơ sài
Chứng nhân còn đâu nữa?
Hoa lệ nguy nga mấy lớp Hoàng thành người xưa giữ nước
Còn vương mùi khói lửa đao binh…

Nghe văng vẳng đâu đây
Tiếng ca trù dìu dặt thâu đêm
“tom” với “chát” ngả nghiêng cung Trường Lạc
Gió trúc ngâm sênh
Nỉ non thơ tình nàng Điểm Bích
Trăng kinh thành ướt đẫm mùi tương tư

Những mảnh vỡ muốn hát lên
Gạch đá muốn réo lên
Chú Hề Hoạn buông tuồng bác học
Nửa vui nửa buồn nửa ca nửa khóc
Dập dìu đêm hội hoa đăng
Son phấn quần hồng
Che lấp tiếng kêu than nơi thôn cùng xóm vắng…

Tôi đứng bên cổ tích mấy vương triều vương vãi phế hưng
Nghe gạch đá sôi lên tiếng voi gầm ngựa hí
Tiếng Nguyễn Trãi can vua chớ đắm say nhã nhạc
Hưng đạo đại vương dặn dò cháu con
Diệu kế giữ nhà giữ nước

Triết nhân là gió là mây là đất là trời
Khanh tướng sang giàu
Nay còn mai mất
Chỉ có Nhân dân chẳng bao giờ mục nát
Bài học thương dân lấy dân làm gốc
Có bao giờ cũ đâu!

Tôi nâng trên trên tay viên gạch hồng “Đại Việt thành chuyên”
Ngỡ trong mơ câu chuyện xây thành Thăng Long thuở trước
Bi tráng những trang đời
Nhòa trong nước mắt
Rưng rưng…


thơ Vũ Bình Lục/ Tác giả gửi bài qua eMail
nnb vi tính giới thiệu

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét