(Về bài thơ THUẬT HỨNG-số15-của Nguyễn Trãi)
Ngại ở nhân gian lưới trần Thì nằm thôn dã miễn yên thân Trúc mai chẳng phụ lòng quân tử Viên hạc đà quen bạn dật dân Hái cúc ương lan hương bén áo Tìm mai đạp nguyệt tuyết xâm khăn Đàn cầm suối trong tai dội Còn một non xanh là cố nhân.
Bài
thơ này Nguyễn Trãi làm khi đã về ở ẩn tại lều tranh quê nhà Côn Sơn,
Chí Linh, Hải Dương. Tiên sinh giờ đây như một ẩn sĩ, như một thường
dân, lại như một thi sĩ lánh đời ở chốn nước mây, ngoài vòng danh lợi
phù phiếm, sau khi đã chịu nhiều bầm dập đớn đau về thể xác và nhất là
tinh thần, như thể một cánh chim đã “phải cung nên cũng sợ làn cây
cong”... Ngại ở nhân gian lưới trần Thì nằm thôn dã miễn yên thân Ngại,
là ngại ngần, sợ hãi lắm cái lưới trần, vô hình vô ảnh ở chốn trần
gian này. Một người anh hùng dân tộc, đã từng vung bút đuổi hàng chục
vạn quân thù (Văn chương Nguyễn Trãi có sức mạnh hơn mười vạn quân-
Phan Huy Chú), Viết thư thảo hịch tài giỏi hơn hết mọi thời (Lê Quý
Đôn), đã từng lớn tiếng sỉ vả thiên tử nhà Minh là Thằng nhãi con Tuyên
Đức động binh không ngừng (Bình Ngô đại cáo), mà giờ đây thấy ngại,
thấy sợ cái lưới trần vô hình vô ảnh đầy bất trắc oan nghiệt kia, thì
sự chua chát đắng cay đã đến độ sâu thẳm rồi. Nên phải lánh về nằm nơi
thôn dã miễn yên thân, thì cũng là một lẽ rất thường tình, là tâm sự có
thể cảm thông. Thì lại làm bạn làm bầu với trúc với mai, với vượn kêu hạc lẩn: Trúc mai chẳng phụ lòng quân tử Viên hạc đà quen bạn dật dân Trúc
và mai, chắc là chẳng phụ lòng người quân tử như ta; hoặc là ta chẳng
bao giờ phụ cái tình tri âm tri kỷ của trúc và mai, cũng là những cốt
cách quân tử đáng trọng ở đời. Từ lều tranh nơi rừng suối ra đi giúp đời
giúp nước, rồi lại đeo đẳng ở chốn quyền môn, là phụ với rừng suối,
với trúc mai. Bây giờ thì Ngại ở nhân gian lưới trần, ta về đây với lời
hứa năm xưa, với những bạn dật dân nơi thôn dã, khỏi phụ lòng trúc mai
quân tử. Còn như Viên (vượn) và chim hạc, vốn chẳng xa lạ gì, đều là
những bạn quen, thân thiết với kẻ dật dân là ta, cũng đều là tri âm
tri kỷ cả! Hình như Ức Trai muốn xua đi những ký ức buồn, xua đi tất cả
những lời thị phi bắng nhắng “đắng lỗ tai” để tâm hồn thanh sạch, như
một tiên ông thoát tục… Đây là một câu thơ thần diệu: Hái cúc ương lan hương bén áo Tìm mai đạp nguyệt tuyết xâm khăn Hái
hoa cúc, ương (trồng) cây lan mà cảm thấy như hương lan hương cúc đang
còn bén, còn bám vào, còn đậu vào áo, thì cả không gian, cả trời đất
như sực nức mùi hương hoa rồi. Con người như thể đang chìm đắm trong
hương hoa dìu dịu của đất trời, còn có thú vị nào hơn? Lại khi tìm mai
để thưởng ngoạn, chân bước như vướng phải ánh trăng, như dẫm lên màu
trăng tươi trăng nõn mà đi… Còn như sương giá (tuyết) thì bám vào khăn
như thể những bông hoa trắng tinh, thấm vào khăn, xâm khăn, chủ động và
rất có tình…Quả là những câu thơ vừa ảo vừa thực, sinh động và đẹp
long lanh, không ít trong thơ Nôm Nguyễn Trãi, nhưng lại thật hiếm thấy
trong thơ Nôm đương thời và cả mấy trăm năm sau đó. Hai câu kết:
Đàn cầm suối trong tai dội / Còn một non xanh là cố nhân thì tác giả đã
vẽ mắt cho bức hoạ bằng thơ, bằng một thứ âm thanh trong vắt, ấy là
tiếng suối róc rách, nghe êm như tiếng đàn cầm dội vào trong tai. Cũng
có khi tiếng đàn cầm kia dội bên tai, như ở một số bài thơ khác của
Tiên sinh đã từng viết, nhưng đây là tiếng đàn cầm dội vào trong tai,
nghĩa là tiếng đàn ấy có thể đã có sẵn rồi, luôn để sẵn rồi, có thể
nghe thấy nó bất cứ lúc nào khi tâm đã tĩnh. Với Tiên sinh lúc này, chỉ
có, chỉ còn một non xanh làm cố nhân mà thôi! Thuật hứng-Bài 15-
của Nguyễn Trãi, chất liệu thơ vẫn là những hình ảnh quen thuộc, như
hương lan hương cúc, cây trúc, hoa mai, rồi vượn rồi hạc, rồi suối và
núi non…Khác chăng là khác ở cấu trúc nội hàm, ở ngữ nghĩa biểu thị,
làm giàu có thêm phong vị uyển chuyển của ngôn từ và âm giai của tư
tưởng! Mỗi chữ trong bài thơ đều có hồn, như thể chúng đang đi lại,
đang tỏa hương, đang nói cười và sắp sửa tuyên ngôn một điều gì đó
huyền bí mông lung!... Hà Nội 8-2011
Bài Vũ Bình Lục/ Tác giả gừi bài nnb vi tính giới thiệu
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét