Ngày nhỏ, đọc “Truyện cổ Grim”, tôi
rất ấn tượng với màn trổ tài của chàng trai nọ: Anh ta đuổi theo một cỗ xe
ngựa, tháo bốn móng sắt của con ngựa và thay luôn bốn móng mới trong khi ngựa
vẫn phi đều. Để làm được điều này rõ ràng phải là một người thực sự tài ba.
Liên hệ với việc làm thơ, tôi cho rằng một thi sĩ tài hoa phải là người trong
quá trình tung hứng vần điệu không được để rơi ý tưởng. Nói cụ thể hơn là dù
giai điệu có luyến láy, bổng trầm thế nào chăng nữa thì cũng không được để nhòe
ý, mất ý, biến câu thơ trở nên tối tăm, vô nghĩa. Như trong câu chuyện nhắc tới
trên, cỗ xe giai điệu vẫn chạy mà chiếc móng sắt của ý tưởng vẫn được khớp vào
đúng vị trí cần thiết. Với những suy nghĩ như vậy, tôi muốn dùng hai chữ tài
hoa để nói về Nguyễn Việt Chiến. Tôi cho rằng, trong xu hướng thơ ca đang dần
bị pha tạp hiện nay, cơ hội để xuất hiện những thi sĩ tài hoa hẳn sẽ ngày một
trở nên hiếm hoi.
Là một tiếng thơ nhiều mê đắm, thơ Nguyễn
Việt Chiến rất giàu nhạc tính. Nó vang, ngân và đầy ắp hình ảnh. Mặc dù theo
tác giả tự giới thiệu thì từ năm 1969, khi mới 17 tuổi, anh đã có thơ in báo,
song với đông đảo bạn đọc, Nguyễn Việt Chiến chỉ thực sự xuất hiện với tư cách
tác giả vào những năm đầu thập niên 90 (của thế kỷ trước). Ở đây, xin lỗi cho
tôi được có một liên hệ: Đọc tập “Mưa lúc không giờ” - tập thơ đầu tay của Nguyễn
Việt Chiến (NXB Hội Nhà văn ấn hành năm 1992), tôi có cảm giác như đó là một sự
tiếp nối của Lưu Quang Vũ, một thi sĩ Hà thành đầy tài năng đã mất vì tai nạn
giao thông trước đó 4 năm. Cũng những xúc cảm nồng hậu, hào hoa, cũng vẫn những
giai điệu thơ quặn siết, du dương, mở ra tầng tầng lớp lớp những thi ảnh bất
ngờ, thú vị. Ông trời hào phóng ban tặng cho Nguyễn Việt Chiến một khả năng cảm
nhận cuộc sống tinh tế cộng với sức liên tưởng dồi dào, để rồi qua đó giúp anh
ghi lại một cách thật ấn tượng những khoảnh khắc tâm trạng của mình cũng như
những cảm thức của anh về lịch sử và sự biến thiên thời cuộc.
Đã bao tác giả viết về cảm giác trống vắng của người lữ khách khi đặt chân xuống một sân ga, bến tàu, song đọc những câu thơ sau đây của Nguyễn Việt Chiến, người đọc vẫn không khỏi xốn xang:
Đã bao tác giả viết về cảm giác trống vắng của người lữ khách khi đặt chân xuống một sân ga, bến tàu, song đọc những câu thơ sau đây của Nguyễn Việt Chiến, người đọc vẫn không khỏi xốn xang:
Thôi hãy ngủ nào ngọn gió cô đơn
Ngọn gió của những toa tàu rỗng
Người khách cuối cùng trên sân ga vắng
Chỉ còn trăng với anh là hai kẻ xuống tàu
(Bài “Ngọn gió màu lam”).
Ngọn gió của những toa tàu rỗng
Người khách cuối cùng trên sân ga vắng
Chỉ còn trăng với anh là hai kẻ xuống tàu
(Bài “Ngọn gió màu lam”).
Ai chẳng từng có cái cảm giác tiếc
nuối khi thấy thời gian cứ bình lặng trôi đi, thu hẹp vòng đời của mình lại,
vậy nhưng đọc những dòng thơ giản dị này của Nguyễn Việt Chiến, ta vẫn không
khỏi thêm lần thảng thốt (chữ “mỏng” trong câu “Tháng giêng ngày mỏng quá” thật
đắt):
Tháng giêng ngày mỏng quá
Nỗi buồn nghe cũ rồi
mà bên kia tờ lịch
nỗi niềm mưa xót rơi
(Bài “Mưa tháng giêng”).
Nỗi buồn nghe cũ rồi
mà bên kia tờ lịch
nỗi niềm mưa xót rơi
(Bài “Mưa tháng giêng”).
Sinh ra tại Hà Nội, quá nửa đời gắn
bó với cảnh và người Hà Nội, Nguyễn Việt Chiến đã đưa được vào thơ mình nhiều
nét đẹp mang phong thái cổ kính, hào hoa của mảnh đất nghìn năm văn vật. Bài
“Mưa phố vào tranh” từng đoạt Giải Nhì cuộc thi thơ Báo Văn nghệ năm 1989-1990
đã lưu lại hình ảnh phố phường Hà Nội qua một trận mưa: “Mưa bay chéo mặt tranh
mờ xóa/ Cả vòm trời loang chảy màu sơn/ Những ngôi nhà như đang trượt ngã/ Gọi dìu
nhau ở phía bên đường”. Chỉ có những dãy nhà cao thấp lô xô, kiểu như trong
tranh Bùi Xuân Phái mới khiến tác giả phải dùng tới mấy chữ “trượt ngã”, “dìu
nhau”. Và cũng chỉ cần mấy chữ “trượt ngã”, “dìu nhau” là ra ngay dãy nhà cổ
trên con phố cổ của Hà Nội, dù tác giả chẳng cần dùng tới hai chữ “nhà cổ” để
gọi tên chúng. Cái tài của tác giả là ở đấy. Điểm ấn tượng nữa là trên nền trận
mưa khuấy đảo, hình ảnh cô gái được tác giả chấm phá bằng những nét thật điệu
nghệ: “Rất có thể em là nhạc trưởng/ Với
chiếc ô màu đỏ trên tay/ Cả thành phố trong mưa giao hưởng/ Màu lam kia cuốn
tít gót giày”. Chỉ với ít câu ít chữ thôi, tác giả đã biến cơn
thịnh nộ của thiên nhiên thành một màn biểu diễn nghệ thuật ngoạn mục.
Hà Nội ngày mưa được thể hiện một
cách nên thơ như vậy, Hà Nội ngày nắng cũng được Nguyễn Việt Chiến chăm chút
bằng những nét vẽ tinh tế: “Tôi đã thấy mùa
thu/ nắng như bầy chim nhỏ/ lang thang trên mái phố/ đánh rơi quả chuông vàng”
(bài “Mùa thu ở lại”).
Đôi khi, chỉ với một đoạn thơ ngắn, tác giả đã đánh thức, khua dậy trong ta những nỗi niềm rất khó nói về một Hà Nội đan xen giữa quá khứ và hiện tại:
Đôi khi, chỉ với một đoạn thơ ngắn, tác giả đã đánh thức, khua dậy trong ta những nỗi niềm rất khó nói về một Hà Nội đan xen giữa quá khứ và hiện tại:
Những con Rùa Vàng đã ngủ
Gối đầu lên huyền thoại xưa
Gió thổi qua lòng tháp rỗng
Trăng sao còn đến tận giờ.
(bài “Những con Rùa Vàng”)
Gối đầu lên huyền thoại xưa
Gió thổi qua lòng tháp rỗng
Trăng sao còn đến tận giờ.
(bài “Những con Rùa Vàng”)
Không có hình ảnh con Rùa Vàng gối
đầu ngủ trên huyền thoại, sẽ không khơi gợi được dấu tích một thời vinh hiển
của cha ông. Song nếu không có câu kết “Trăng sao còn đến tận giờ”, chắc chắn
chúng ta chỉ thấy vóc dáng già nua của quá khứ mà không thấy sức trẻ của thì
hiện tại, và cao hơn thế, không thấy được dòng chảy xuyên suốt của lịch sử, của
thời gian…Thơ Nguyễn Việt Chiến nhiều chỗ ngỡ như ý tưởng được thả xuống một
cách ngẫu nhiên, nhưng ngẫm kỹ lại không kém phần sâu sắc.
Có một thời, đọc thơ Nguyễn Việt
Chiến, ta thấy anh vận dụng nhiều khúc thức cũ, thậm chí có những cái cũ tới
mức có lẽ ngay cả các tác giả thời tiền chiến cũng phải gọi bằng…cụ. Ví như,
năm 1990, trong bài “Chim sẻ phố”, Nguyễn Việt Chiến từng đặt bút viết: “Lá rụng, mùa ơi! Rụng nốt đi/ Trên bàn tay vắng, dấu
chân khuya/ Tôi nghe hơi phố không còn ấm/ Mà lửa đèn đêm thức nhớ gì?”,
và đến năm 2000, trong bài “Ta của Xứ Đoài”, anh vẫn còn viết: “Thanh thản ruộng đồng thanh thản quê/ Trời trong mây
biếc rủ ta về/ Sông quê thiêm thiếp đôi bờ cỏ/ Mơn mởn mùa trăng giăng gió mê”.
Về âm điệu nào có khác gì so với mấy câu thơ của Hồ Dzếnh viết những năm cuối
thập niên 30: “Ta nhớ màu quê khát gió quê/ Mây ơi ngưng cánh đợi ta về/ Cho ta
trông lại tầng xanh thẳm/ Ngâm lại bài thơ Phương thảo thê…” (bài “Tư hương”)?
Nói vậy nhưng cũng có những cái ngỡ cũ, từng được nhiều tác giả sử dụng chán
chê, vậy mà rồi vào tay Nguyễn Việt Chiến, nó đã được “phù phép” và trở nên
những câu thơ quyến rũ, đầy ma lực. Bài “Thèm” là một ví dụ. Ở thời Thơ Mới,
cái cách dùng cả một khổ thơ, thậm chí cả bài thơ gồm rặt những chữ có thanh
bằng nằm cuối câu đã được Xuân Diệu thực hiện ở bài “Nhị hồ”, Bích Khê thực
hiện ở bài “Tỳ bà”. Đến Nguyễn Việt Chiến, cách chơi thơ theo hướng này đã được
nâng lên một bước. Tất cả là một sự pha trộn nhuần nhuyễn giữa vẻ đẹp thánh
thót, du dương của giai điệu và vẻ đẹp thanh khiết, hư ảo của hình ảnh. Xin
trích khúc giữa của bài thơ:
Thèm một ánh lửa cuối chiều đông xa
Vai em gầy lạnh trên thềm phố mưa
Bế em tôi ủ trong vòng tay mơ
Đốt thơ tôi sưởi những buồn đau xưa
Thèm một ngụm nước nỗi lòng khát khô
Chảy đi giọt suối ta quên bao giờ
Đóng vào chai biếc cánh rừng bỏ quên
Những con suối điếc bóng rừng khô im.
Thèm một tiếng đàn mơ hoang nỗi nhớ
Những chiều mây vàng bồng bềnh lửa phố
Một tay mở cửa một tay ôm đàn
Còn tay nào nữa dắt dìu em sang…
Lại có trường hợp, như ở bài lục bát “Chiều không tắt”, Nguyễn Việt Chiến đã tìm ra một cách chơi chữ khá lý thú - từng cặp hai chữ đầu và hai chữ cuối của câu lục quấn quít bay đôi với nhau: “Mưa bay em ơi mưa say/ Chiều không nắng, ướt một ngày bên tôi/ Lá rơi em ơi lá phơi/ Chiều không nhớ, vắng một trời biệt ly/ Người đi em ơi người mê/ Chiều không hôn thú, mây về dửng dưng/ Lá rung em ơi lá mong/ Chiều không tắt ở muôn cung đàn này…”. Như vậy, ta có thể thấy, với một số cung cách cũ, nếu tác giả là người thực sự tài hoa, có vốn liếng ngôn từ phong phú và biết đẩy cuộc - chơi - sáng - tạo tới tận cùng thì ở một góc độ nhất định, họ vẫn có thể tạo nên những thi phẩm hấp dẫn, thu hút độc giả.
Tất nhiên, nói vậy không có nghĩa là
ta cứ cậy tài mà mãi bó mình trong việc thâm canh, cày xới trên mảnh đất đã bạc
màu. Từ nhiều năm nay, Nguyễn Việt Chiến đã có những chuyển hướng trong sáng
tác và bên cạnh việc sáng tác, anh còn tham gia viết phê bình, cổ vũ động viên
các cây bút mà anh cho là có khuynh hướng tìm tòi, cách tân. Tôi đã đọc một số bài
viết dạng này của Nguyễn Việt Chiến. Cũng có bài tôi không thật hiểu anh nói gì
và ngờ rằng chính bản thân anh cũng không thật hiểu điều mình đang nói, song
thái độ ủng hộ của Nguyễn Việt Chiến đối với đối tượng mà anh đề cập là rõ
ràng, quyết liệt. Riêng sự cách tân mà Nguyễn Việt Chiến áp dụng với chính bản
thân mình thì xem ra hiệu quả vẫn chưa được là bao. Cách tân là một công việc
hết sức khó khăn, đâu phải cứ vung vãi dấu chấm vào khắp câu thơ theo kiểu: “Sông văn. Chảy. Dọc cuộc đời/ Nguyễn ngồi câu chữ.
Dưới trời mưa. Đêm/ Có cô gái trẻ. Làng bên/ Ra sông. Giặt lụa. Vào đêm Nguyễn
về” (bài “Gặp Nguyễn Du trên sông đêm”), hoặc chẻ nhỏ, cắt đôi câu
thơ - như từ bài “Thèm” (22 câu, mỗi câu 8 chữ) chữa thành bài “Phố” (52 câu,
thêm 8 câu mới, mỗi câu 4 chữ) là thành “cách tân”? Cũng vậy, cùng một vấn đề
tương tự, khi tác giả khuôn nó vào thể thơ lục bát thì tạo được bầu không khí
linh thiêng, thành kính: “Mẹ ngồi hai vạt
áo nâu/ Hương ba nén thắp, khói cầu nguyện bay/ Ngoài kia tiếng vạc khô gầy/ Sao
dăm mảnh vỡ, gió day dứt lùa/ Nghe như vọng tự nghìn xưa/ Trong sương khói
tiếng mõ chùa đêm đêm/ Những ai từ bỏ thiên nhiên/ Lánh đời về dưới cửa
thiền…những ai/ Đức tin ở một ngày mai/ Những tượng đất hát, những đền đài
thiêng/ Đạp qua khổ nhục oán hèn/ Đạp qua dục vọng, cháy lên Niết bàn”
(bài “Mẹ”), mà đập dẹt ra, để như câu nói thường thì nó ra thế này: “Mẹ đang
cầu nguyện/ Mỏi mòn chuỗi hạt tháng năm/ bóng mẹ in trên vách thời gian/ như pho
tượng tạc bằng nước mắt/ Mẹ bảo: nước mắt ban ngày chảy xuôi đánh thức những
ngôi đền/ còn ban đêm nước mắt chảy ngược vào trong/ thấm đến một miền đức tin
cứu rỗi” (bài “Chiều xuống rồi, về nhà đi con”). Cùng đề cập tới sự hy sinh của
người lính, nếu như ở bài “Về đại bác” được viết bằng một thể thơ ổn định, Nguyễn
Việt Chiến đã có những đoạn xúc động đến trào nước mắt: “Đại bác nổ cuộc chiến
tranh thứ nhất/ Đất chiến hào cỏ chưa kịp nhú xanh/ Thì lựu đạn và lưỡi lê
cường tập/ Lần thứ hai cỏ lại thấm máu mình” thì ở bài “Trận mạc”, mặc dù được
tác giả viết một cách “phóng bút” hơn, song những câu thơ lại như thể những
dòng tin khô khan, rất ít biểu cảm: “Trên
dây kẽm gai/ Những ngôi sao mùa thu trong vắt/ Nơi quả mìn định hướng đêm ấy/
Phạt ngang người những chàng trai/ Các anh nằm vắt mình trên lưỡi kẽm gai/ Máu
đọng vũng như hoa hồng bị xéo/ Những hoa hồng bị mảnh mìn phạt chéo/ Nơi ngực
áo, lá thư của mẹ máu thấm loang”. Từ hai ví dụ trên, ta có thể
thấy việc chuyển đổi từ thơ có vần sang thơ không vần, hoặc từ thơ nhiều vần
sang thơ ít vần, trong trường hợp cụ thể này, chỗ nào đắc địa hơn? Không, ở đây
vấn đề không phải là đọc những câu thơ trên, “độc giả quen thưởng thức thơ có
vần điệu thấy khó đọc, khó vào, khó hiểu” như Nguyễn Việt Chiến từng có lần
than tiếc đâu (mấy câu thơ ấy thậm chí còn rất dễ hiểu là khác). Vấn đề là nó
nôm na, sống sít, thừa chữ nhưng lại thiếu sức rung cảm.
Thật ra, việc một nhà thơ loay hoay
tìm cách thay đổi phương thức thể hiện để tạo sự đa dạng trong bút pháp
là điều không riêng Nguyễn Việt Chiến mà bất cứ nhà thơ chân chính nào cũng
khát khao vươn tới. Vấn đề cần bàn là phải xem tạng của mình đến đâu để việc
cải tiến ấy không thành… “cải lùi”. Thi sĩ Nga Evtushenko từng đưa ra lời cảnh
báo: “Nếu như tôi còn quẫy lộn đôi khi/ Thì
cũng chỉ như cây lắc mình cho rụng lá/ Những ý nghĩ thoảng qua, dịu dàng, buồn
bã/ Rằng việc chính của đời đâu phải mãi rung cây”. Quá đúng! Khi
cây đã vào mùa rụng lá thì mọi sự rung lắc cũng không vì thế mà làm cho lá dày
lên, nếu không nói nó càng làm cho lá rụng nhiều hơn. Điều cần thiết là - vẫn theo
cách nói của Evtushenko: “Khó khăn chính là
làm sao hiểu thấu/ Bản thân mình trong thế giới đổi thay/ Nhìn rõ hết mọi điều
khi mùa thu rụng lá/ Khi đời đã trụi trần đối diện với mình đây”.
Cái tạng cảm xúc trời cho mỗi người (như thể chiều cao), đến một tuổi nào đó nó
gần như đã được mặc định. Nếu có thay đổi chỉ là sự thêm thắt, bổ sung, chứ có
mạnh tay dỡ bỏ làm lại cũng khó “nên cơm nên cháo” gì. Đi vào cụ thể trường hợp
của Nguyễn Việt Chiến, tôi thấy ngay từ khi cho xuất bản tập thơ đầu tay “Mưa
lúc không giờ”, anh đã là tác giả có phong cách riêng, và phong cách ấy - theo
tôi, gần như đã định hình.
Điều tôi lấy làm tiếc cho Nguyễn
Việt Chiến: Anh là một thi sĩ tung tẩy, tài hoa, có nhiều câu thơ hay, song
hiếm bài hoàn chỉnh. Có những bài đọc rất thanh thoát, thú vị, thế rồi bất ngờ
ở một câu nào đó, người đọc bỗng khựng lại bởi một lỗi khá sơ đẳng, như thể
nhai phải miếng sạn trong một bát cơm ngon, vấp phải một cái ổ gà trên đường
cao tốc (kiểu như trong bài “Cát đợi”, một bài từng được nhà phê bình văn học
Hoàng Ngọc Hiến đánh giá rất cao, mạch thơ đang nhuần nhị chảy trôi bỗng gặp
phải mấy chữ “chim gì kêu đau” nghe vừa buồn cười vừa không được nhã cho lắm: “Lối mòn bạc cỏ may đê/ Chiều mòn rỗng tiếng chim gì
kêu đau”). Như vậy, việc cần hơn cả đối với Nguyễn Việt Chiến lúc
này, theo thiển ý của tôi là làm sao tiếp tục điều chỉnh, hoàn thiện những gì
mình đang có, hơn là cứ mải cung quăng đi tìm những gì mình chưa có. Việc anh
tãi câu thơ của mình ra, hoặc tăng dấu chấm câu, hạ nhiều nấc xuống dòng (như
tôi trích dẫn ở trên), suy cho cùng cũng chẳng giúp thơ anh “cách tân” được là
bao. Chưa nói nó càng làm thơ anh mất đi cái nhung tuyết vốn là thứ quý giá mà
một thi sĩ như Nguyễn Việt Chiến từng có.
.
11-7-2012
Nguồn: Văn nghệ Công an, số 180, ra ngày 16- 7- 2012
.
11-7-2012
Nguồn: Văn nghệ Công an, số 180, ra ngày 16- 7- 2012
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét