Chủ Nhật, 15 tháng 7, 2012

Hoàng Vũ Thuật viết về thơ Hải Kỳ


THƠ, SỰ VẬN ĐỘNG CỦA CẢM XÚC
HOÀNG VŨ THUẬT

       35 năm với đời người rất dài, nhưng 35 năm cầm bút không ai tính dài hay ngắn, thời gian không quyết định hiệu quả sáng tạo, tự thân tác phẩm quyết định giá trị của nó. Với bốn tập thơ đã xuất bản và đang chuẩn bị hai tập tiếp nối, Hải Kỳ chứng minh sức lao động bền bỉ, chiếm vị trí tin yêu trong lòng độc giả.
      Nhiều người cho rằng tất cả những gì sắc sảo của Hải Kỳ đều dồn nén vào thơ lục bát. Đọc lại toàn bộ sáng tác của anh, nhận xét ấy xác đáng, thiết nghĩ ở góc nhìn khác còn những điều lý thú để tiếp tục bàn thêm.

      Phải nói rằng, do sự ràng buộc về luật vần điệu, người viết lục bát dễ lẫn vào nhau, dẫn tới sự bằng phẳng và ổn định. Không lạ gì người viết sau đôi khi là cái bóng của người viết trước. Vì thế mà người ta thường hóm hỉnh nào là Nguyễn Bính thời nay, Nguyễn Duy thứ hai…Hải Kỳ không vậy, anh có miền lục bát riêng, không giống ai, điều này đáng khâm phục nể trọng. Cái chìa khoá nào giúp nhà thơ mở ra cánh cửa mới nơi ngôi nhà cổ đã trở thành di sản dân tộc? Giải mã vấn đề này ắt thấu rõ thơ hay không lệ thuộc vào hình thức.
      Nhiều người lầm tưởng rằng cứ thay đổi kết cấu, câu chữ, thoát vần thì sẽ nhập được vào trào lưu mới của thơ ca. Điều này chỉ đúng một phần, nhưng chưa phải phần quyết định. Cuộc sống thường nhật luôn vận động và biến đổi. Nhà thơ không thể ghi chép tất cả các biến đổi ấy theo đơn tuyến một cách máy móc. Cuộc sống vào thơ nhờ sự vận động của cảm xúc. Sự vận động cảm xúc là nhân tố phát triển của hình tượng thơ. Nếu cảm xúc không đổi, đơn điệu thì mọi bài thơ dưới hình thức nào cũng không mới mẻ thêm lên, trái lại nó gây nhàm chán, mòn cũ. Thơ lục bát hay thơ tự do đều có khuôn định về hình thức. Dẫu biết thơ tự do giải phóng mọi ràng buộc về niêm luật, phóng túng trong các thao tác hình tượng câu chữ, nhưng đằng sau đó là cái gì, nếu không gọi là một khuôn định khác khi đạt tới đỉnh điểm. Chỉ tư duy con người không có giới hạn đỉnh điểm. Tư duy con người là vũ trụ vô bờ bến. Nhà thơ tài hoa luôn hướng cảm xúc mình về cõi lạ, không giống trước đó và không rập khuôn cảm xúc người khác.

      Trong số các bài lục bát hay, Hạt cát, Tôi ra cửa biển là hai bài thơ tiêu biểu sử dụng tinh luyện các biện pháp nghệ thuật. Sự liên tưởng ở bài Hạt cát không nghiêng về phía mô tả sinh học, hoặc thao tác kiểu như các nhà thơ khác:

                      Trắng như là chẳng có gì
              Trắng như là buổi người đi không về

      Trắng so với chẳng có gì, đã là phép so sánh giàu hình tượng, nhưng trắng được ví  như buổi người đi không về thì đã vượt tầng qua một thấu kính thẩm mỹ bất ngờ. Giữa hạt cát trắng, một vật thể được mô tả bằng màu sắc và hình ảnh người đi không về, không gian nội tâm của cuộc biệt ly, hai thành tố ấy đứng bên nhau mang lại hiệu quả cao hơn, lạ hơn trong tư duy sáng tạo.

     Ở câu thơ khác trong bài Tôi ra cửa biển: Tôi rơi vào cuối ngọn nồm / Em rơi vào cuối nỗi buồn của tôi cũng vậy,  một thủ pháp siêu tượng trưng. Chẳng ai rơi theo kiểu ấy. Trước đó câu thơ mùa đông rụng lá ưu phiền đã làm tiền đề cho trạng thái tình cảm của hai người “đang rơi”. Giống như hai chiếc lá cô đơn ưu phiền trong trời đất, mộtrơi vào cuối ngọn nồm, một lại rơi vào cuối nỗi buồn thăm thẳm mông lung. Nếu đặc tả bằng hội hoạ thì câu lục là bức tranh tả thực về tâm trạng, còn câu bát chỉ có thể thông qua trường phái ấn tượng mới thực hiện được. Nhờ các thủ pháp nghệ thuật linh hoạt đẩy tới hai câu kết làm chân đế toàn bài, tạo nên hình tượng thơ nhất quán, lan toả:

                          Mùa thu mặc áo gì kia
                  Còn tôi mặc sợi đầm đìa mưa ngâu.

       Hải Kỳ còn thành công qua các bài: Tôi nhìn cho đến, Tôi và em với Thiên An, Nằm đếm trời sao, Cỏ mặt trời… Có điều khi đã mở được cánh cửa mới trong ngôi nhà lục bát, chủ nhân dễ tự bằng lòng, đắm chìm trong hạnh phúc, quên rằng mỗi cánh cửa chỉ có thể hướng về một chân trời nhất định. Sẽ còn bao nhiêu cánh cửa chưa mở, thật khó nhận biết, đây là những thách đố thường xuyên tâm trí nhà thơ. Hình thức thơ lục bát như những mẩu ngọc sáng trong tay nghệ nhân sáng tạo. Người thợ thông minh tài nghệ sẽ tạo ra thứ trang sức đẹp và lạ, nhược bằng ít dụng công , thì dù là sản phẩm quý đấy nhưng sẽ là những mẫu hàng cũ kỹ, trùng lặp cái đã đầy dẫy trên thị trường.

      Tôi cho rằng, nếu chỉ đọc và đánh giá Hải Kỳ về thơ lục bát sẽ mất cân đối. Bên cạnh lục bát, các thể thơ khác không làm mờ đi gương mặt thơ Hải Kỳ, ngược lại nếu nghiên cứu kỹ, ta còn thấy gương mặt nhà thơ lấp lánh từ phía khác. Tôi không làm phép đối chiếu so sánh. Bản thân các bài thơ có sức sống độc lập và tự khẳng định giá trị.

      Có thể xem đây như sự ngẫu nhiên, cũng có thể coi là ý niệm, năm 1984, khi giã từ Huế về lại Quảng Bình, sau bao năm đeo đẳng học hành, Hải Kỳ viết trong bài Từ biệt :

                     Thôi, từ biệt em, từ biệt Huế
                     Từ biệt chính tôi từ lâu như thế
                     Bây giờ tôi xa lạ với tôi.

        Một tuyên ngôn chăng , đúng hay không đúng? Đôi khi nhà thơ không quản lý nổi ý thức của mình. Trạng thái vô thức đẩy hồn thơ sang bến bờ lạ, ngoài mong muốn dự định chủ quan. Nhưng cái dòng chảy khoáng đãng này lắng từ lâu trong tiềm thức anh. Tôi nhớ khoảng năm 1969, những bài thơ đầu tiên ra đời như Tiếng bom, Đường mưanhà thơ trẻ Hải Kỳ hồi ấy đã có những câu thơ gây ấn tượng, được chú ý: Chiều đường mưa người đi vội vàng / Bùn nhão theo vết bánh xe chở nặng…/ Hút về phương Nam. Năm 1980, bài thơ Với biển in trên báo Văn Nghệ xuất hiện những câu thơ với cảm quan mạnh mẽ:

             Vốc ngụm nước thấy nồng mặn quá
             Như tình thật không hề giả trá
             Vị muối kia đâu chỉ có gần bờ
             Lòng biển xanh nồng mặn đến xa khơi.

       Một bài thơ dài, cân đối hai mặt cảm xúc và suy tưởng, hình ảnh đột biến: Nhớ đầy lên ngọn triều…/ Xẻ mình ra / Xả thành muôn tay sóng. Biển hiện thân sức mạnh nghìn đời, sức mạnh con người. Bằng những bài thơ ấy Hải Kỳ lập trình một dòng thơ không mềm mại uyển chuyển duyên dáng như lục bát, nó trẻ trung khỏe khoắn và khoáng đạt. Tư duy tự do cho lập trình ấy là những bài được cấu tứ chặt chẽ, làm chỗ dựa cho sự vận động của suy nghĩ và cảm xúc, lật xới các lớp vỉa ngôn từ không theo một trật tự nào trong sáng tạo.

                Mùa hè. Đọng. Trong phòng
                Cửa sổ. Vụt. Ùa. Khoáng đãng
                …
                Chiều. Vỏ bầu khô.Trống rỗng.
                                                          (Dấu chấm)

      Không hề thao tác bằng lối kỹ xảo, các dấu chấm trong bài thơ đặt đúng chỗ. Một chữ, một tiếng đã vang vọng: Chiều. Vỏ bầu khô. Trống rỗng được ngắt làm ba quãng, dựng dậy trước mắt ta buổi chiều hoang trống rỗng như vỏ bầu khô, một chiều quan tái xe xót. Thơ hút tâm linh người đọc. Thơ, tâm linh nhà thơ và người đọc nhập một. Trên con đường ấy Hải Kỳ tung ra nhiều bài như loạt tín hiệu nóng phát đi từ ngọn đèn thơ: Nửa chừng, Tương phản, Cây đèn biển tình nhân, Người hành khất, Với cỏ, Gió trong chiều, Cách xa…

       Có thể nhiều người thuộc thơ lục bát, năm chữ, bảy chữ của Hải Kỳ mà ít biết hoặc thuộc những bài thơ tự do. Hàn Mặc Tử, Nguyễn Bính, Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Bích Khê, Nguyễn Xuân Sanh… cùng nhau xây nên toà tháp ngà Thơ Mới. Sự đóng góp của các thi nhân tiền bối tiếp tục tới sau này, trừ Hàn Mặc Tử, Bích Khê mất sớm. Người đời thuộc thơ Nguyễn Bính, Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử… mà ít thuộc thơ Chế Lan Viên, điều ấy không lấy làm lạ. Có thể khẳng định trong cùng thế hệ, Chế Lan Viên bằng năng lực biểu hiện và khả năng thích ứng đã tách ra, hình thành một giọng thơ triết lý đầy hùng biện lại rất trữ tình. Chế Lan Viên vẫn là người lừng lững trên văn đàn, một nhà thơ lớn thời đại. Chúng ta từng thuộc lòng hàng chục bài thơ do được phổ biến, truyền bá qua nhiều con đường mà không nằm lòng được một câu thơ đáng nhớ. Đó là bài học thấm thía về nhận thức, có dịp xin được bàn tới trong một bài viết khác.

      Tôi cứ ngờ ngợ về những câu thơ tuôn trào từ dòng chảy thứ hai này của Hải Kỳ. Đọc một lần dễ bỏ qua, đọc lần nữa, rồi lần nữa. Có cái gì níu ta lại, không thể vội vàng chia tay:

       Dẫu sao thì gió mùa thu trên ngọn cỏ may cũng xa vắng tuyệt vời
        Có ai qua mà mong người phải gỡ
        Cái vô duyên của ngọn gió hững hờ
        Cái hững hờ của người vội vã
        Chẳng biết mùa thu nấp trong cỏ may nghe hết những giận hờn
                                                                                                                                    
                                                   (Cách xa)

      Mỗi người là một thế giới riêng biệt. Càng đề cao con người, tôn trọng cái tôi trữ tình, hiểu tận ngọn nguồn bản thể, ta sẽ đọc thấy sự linh diệu trong từng câu thơ tự phá vỡ mình không theo một quy luật nào. Mùa thu  xa vắng tuyệt vời theo ngọn gió ra đi, hay còn đâu đó trong từng chấm cỏ may kia! Cái bảng lảng thực thực hư hư của thơ, chính là cõi lòng ta trong thế giới huyền vi: Sau lụi tàn là khởi nguyên mới khát khao / Ấy thế mà sau nỗi buồn lại tiếp nỗi buồn sâu hơn nữa. Tại sao thế giới tự nhiên và thế giới nội tâm con người không cùng chung nhịp điệu? Thơ ấy đọc để hiểu, từ hiểu đến ngẫm chứ không thể đọc để thuộc, giống như ta vừa nhấp chén rượu trên môi, thấm vào tận da thịt và để cho dòng nước mắt tự do rơi lúc buồn đau, hay hồ hởi phấn chấn khi vừa cất xong gánh nặng đường xa vậy.

      Không ai tắm hai lần trên một dòng sông. Cái gì rồi cũng có giới hạn. Thơ cũng vậy dù lục bát hay tự do. Các nhà thơ hãy tự làm cho mình một bài toán trắc nghiệm rằng bao nhiêu hình ảnh, từ ngữ, vần nhịp mà ta huy động được sử dụng lại hoặc do vô tình hoặc  cố ý. Ta sẽ thấy sự trùng lặp chồng chéo trong vận động cảm xúc chính là biểu hiện của già nua sáng tạo. Cảm xúc không thăng hoa, không nhập thần, thơ sẽ đứng yên, con sông sáng tạo chẳng khác nào mặt hồ phẳng lặng. Vận động sáng tạo của cảm xúc và gương mặt bài thơ như hình với bóng. Điều này không loại trừ một ai.
.
Đồng Hới, 25 tháng 11 năm 2004


Bài Hoàng Vũ Thuật/ Lethieunhon giới thiệu

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét