Thứ Bảy, 7 tháng 7, 2012

Người Thơ không biết tuổi, Lục Bát không có mùa…

(Đọc tập “Lục bát không mùa”, thơ Quang Chuyền, Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2011)

NGUYỄN THÁI SƠN

  Sau Nguyễn Du sau Tản Đà, nhà thơ thành công nhất với thể thơ lục bát là Nguyễn Bính, chỉ có thể là Nguyễn Bính, người được sinh ra bên “dậu mồng tơi xanh rờn”, dưới những gốc chanh đang mùa phát tiết “hoa chanh nở giữa vườn chanh”, phiêu dạt khắp trong Nam ngoài Bắc  để rồi lại trở về quê hương bản quán trút hơi thở cuối cùng bên miệng giếng thơi.
  Những tác giả làm thơ lục bát được biết đến trong hơn nửa thế kỉ qua ở nước ta thường được sinh ra ở nông thôn, và những bài những câu lục bát hay nhất của họ cũng thường liên quan đến phong cảnh, cuộc sống, tình người nơi làng quê. Kiệt sức sau bao năm tháng ve vãn đeo bám săn đuổi vẫn chỉ nắm được trong tay đôi chiếc lông đuôi lông cánh, vài sợi tóc rụng tóc rối của chim Hồng chim Hạc Thơ, của Tiên Thơ Chúa Thơ, tôi e ngại mọi thể loại thi ca, nhưng sợ nhất ngại nhất chính là thể thơ dưới tám trên sáu này, năm thì mười họa mới dám vừa run vừa viết dăm câu sáu tám đôi bài lục bát, viết xong đọc thấy nguội lạnh xòe diêm “thêm lửa vào thơ” qúa nửa, non nửa còn lại lâu lâu lại phải “thôi xao”, “nhuận sắc”, đọc đi đọc lại vẫn thấy chẳng ra làm sao, chẳng lẽ “thêm thơ vào lửa” nốt, bởi vậy tôi thật lòng cảm phục, vị nể những người trung thành chung thủy với thơ lục bát như Đồng Đức Bốn như Lê Đình Cánh như Quang Chuyền và không thật nhiều những nhà thơ khác. Các anh các chị không chỉ có lắm bài thơ lục bát in báo phóng lên mạng mà còn xuất bản hẳn một tập vài tập toàn những bài thuộc loại “thơ khó” này. Sợ thế. Phục thật !

  Cách nay trên dưới bốn chục năm, khoảng cuối Thập niên Sáu mươi, một loạt các “anh bộ đội làm thơ“ đua nhau xuất hiện ở các đơn vị trong toàn quân, với những Đào Nguyên Bảo (công an vũ trang), Phan Đức Chính (bộ đội tên lửa), Nguyễn Văn Chương (Quân khu Ba), Nguyễn Hồng Hà (Sư đoàn 308), Thanh Đồng (Quân khu Bốn), Quang Chuyền thuộc bộ đội thông tin…(Tôi chỉ kể tên những “đồng chí” mà mình thực sự có quan hệ và đã gặp nhau đôi ba lần, chứ còn bao nhà thơ quân đội nổi tiếng khác của “giai đoạn lịch sử” này, do tôi không có may mắn được quen biết thân thiết và cũng vì chưa xin phép nên qủa thật không thể liều lĩnh “điểm danh” các ông các anh vào bài viết nho nhỏ này).
                   
  Nom ảnh nghe tên đọc thơ đã ngót nửa thế kỉ nhưng năm 2008 tôi mới gặp Quang Chuyền ở Sài Gòn. Nhìn dáng người vẻ mặt và nghe giọng nói của anh, người ta thấy không cần thiết phải cảnh giác cho lắm. “Lục bát không mùa”  là tập thơ thứ chín của nhà thơ Quang Chuyền, mấy chục năm mặc áo lính rồi mươi năm khoác áo dân, hết Hà Nội lại Sài Gòn, người và thơ Quang Chuyền vẫn khoan thai nhẩn nha đôn hậu. Phê phán sự đổi thay theo chiều hướng đáng lo “năm sau kém hơn cùng kỳ năm trước” của nhân tình thế thái, của môi trường thiên nhiên, của các mối quan hệ xã hội, Quang Chuyên vẫn nhỏ nhẹ thủ thỉ, mặc dù nỗi buồn trong lòng người làm thơ chắc hẳn không nhẹ nhỏ chút nào:                                                                                   
Tình yêu giờ khác tình yêu
Ai còn lấy nghĩa nàng Kiều cân đong…”
(…)
“Bây giờ mưa khác cơn mưa
Đến đi bất chợt, sáng trưa vội vàng”…
Chỉ ra nguyên nhân của những cái “khác” ấy không khó, ai mà chẳng biết, vì thế, người đọc khá bất ngờ khi Quang Chuyền “dũng cảm” nhận một phần trách nhiệm:
“Tôi giờ như thể khác tôi” (Bây giờ và ngày ấy).
Nhà thơ viết vậy thôi, chứ nếu đã khác xưa, anh làm sao còn có thể chạnh lòng, buồn đến mất ngủ trước những chuyện mà với ai kia cũng chỉ là cái sự thường chẳng lớn lao gì:
“Ngoài kia thao thức sao trời
Dường như có vạt sương rơi mé hè
Ngoài kia cơn gió tái tê
Đêm nay thổi rỗng lòng quê một người”

(Đêm nay).

Người làm thơ, nhất là những ai đã bước sang phía bên kia con dốc của cuộc đời, thường hay tự làm khổ mình bởi sự nhạy cảm:
“Nhà ta nửa lệch nửa bằng
Nắng chênh nửa sáng, sương giăng nửa chiều
Cây nhang cháy nửa liêu xiêu
Tóc em bạc nửa bởi nhều buồn lo”

(Nửa trời trăng khuyết).
Quang Chuyền viết “nhà ta” vậy thôi, chứ “tư gia” của anh thực ra khá to rộng, chả “lệch” chút nào, chẳng qua là nhà thơ còn biết “nhìn xuống”, cám cảnh với hàng triệu ngôi nhà chẳng đáng gọi là nhà, cột nghiêng mái giột không chỉ thường gặp ở những vùng quê nghèo, mà bất cứ ai cũng có thể mục sở thị thấy “toạ lạc” san sát dọc theo những kênh rạch nước đen ngay ở chốn phồn hoa đô hội.

  Quang Chuyền, cùng dăm bảy chục những người “lính nghĩa vụ quân sự” làm thơ năm nào (trong đó có tôi may mắn được đứng ở cuối hàng) nay đều đã ngấp nghé “U bảy mươi” cả rồi, dù không được rắc thêm lá dâu lá sắn thì vẫn cứ nhả tơ - chẳng là “tơ tằm” thì là “tơ lòng” vậy.

Mỗi lần ra tập thơ tôi chỉ mong được người ta đọc cho một nửa mà cũng khó. “Lục bát không mùa”, tập thơ 45 bài toàn lục bát của Quang Chuyền, bài nào cũng thích câu nào cũng hay - có mà Thánh ! Được bạn đọc giở hết giấy, có bài có trang đọc đi đọc lại, có câu được đánh dấu hoa thị hoa khế, có dòng được gạch dưới bằng mực đỏ mực xanh, thế tưởng đã là quý lắm rồi. Nhìn chung, các bài trong “Lục bát không mùa”  khá đều tay, chỉ mới đọc hai lần, người khó tính có thể chưa tìm ra bài toàn bích câu “tuyệt cú” (bài “Ở nơi làng ấy”  - trang 61, bài “Vầng trăng lẻ bóng” - trang 63, cũng có thể là “Nợ” ở trang 73 chăng), nhưng cũng đã có thể gật gù nhận ra rằng: không có bài “sượng” không có bài “lép” không có câu “độn”
.
Gập bìa “Lục bát không mùa”  lại giở ra mấy lần đọc lại “Ở nơi…làng ấy…” của Quang Chuyền. Ám ảnh chăng? Chạm vào lòng trắc ẩn chăng?

Ở nơi…làng ấy

Ở nơi thiếu vắng đàn ông
Như nhà thiếu cột, như sông vắng thuyền
Ở nơi thừa thãi trinh nguyên
Là nơi gái hóa thành Tiên cõi người

Đũa đôi mà chả thành đôi
Mâm cơm kê lệch, chỗ ngồi để hoang
Chỉn chu cũng hóa hoang toàng
Là làng sao thiếu hồn làng…người ơi!...

Thương thay kiếp trẻ chào đời
Mồ côi từ ở bụng người mang thai
Làm cha bé ấy…là ai ?...
Cái câu hỏi…cứ giằng dai nỗi niềm…

Đời người đau đáu triền miên
Chiến tranh mòn khuyết trăng liềm trời cao
Có trầu đời thiếu quả cau
Người tan phía ấy…kẻ đau nẻo này?…

Ở nơi âm khí giăng đầy
Dòng sông vỗ sóng hao gầy chảy qua
Ở nơi thiếu vắng người cha
Người ơi làng ấy có là làng không ?...


 
Bài Nguyễn Thái Sơn/ Lethieunhon giới thiệu

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét