Thứ Tư, 15 tháng 2, 2012

HAI BÀI THƠ CỦA NGUYỄN ANH TUẤN




KHÓC CÙNG THẦN SIÊU

Khóc cùng Nến khóc1 của cụ Nguyễn Văn Siêu

Nơi quyền quý ấm áp, cụ ngồi thu mình trong một góc
“cười nửa miệng” để vờ vui, vờ tán thưởng
những câu đùa thâm thuý hay vô duyên
và chợt thấy mình vô duyên
giữa “cuộc vui tầm thường”
đành nhìn những ngọn nến nhỏ to sáng “tựa sao trời”
để hình dung ra chúng đang khóc
khóc cho sự vô vị của người đời trong “cuộc truy hoan”
dù những câu khen tặng nhau chẳng thua gì ngọc ngà gấm vóc!
khóc cho sự bất lực của một người muốn thoát ra khỏi sự vô vị ấy,
sự vô vị có bao thứ đáng yêu làm bình phong
khóc vì cái mơ tưởng ánh sáng Phương Đông sao mà xa vời
khóc bởi trong thế gian này ánh sao băng của Cao Chu Thần thực hiếm hoi,
và ánh nến đặt cạnh chỉ là đốm ma trơi
khóc cho chính mình chảy tan ra như "ngọc trai trong suốt"
mà chỉ để mua vui cho thiên hạ rỗi việc cười đùa, tán tụng và kê kích lẫn nhau
dò hỏi nhau vơ vét được những gì sau mỗi đại sự của Quốc gia
nến chảy làm bỏng ruột bỏng gan người này
nhưng lại làm vui mắt kẻ khác
Nến cháy lụi tàn rồi
cái “vỏ hào nhoáng” mà nó phơi  ra trong ánh sáng cưỡng bức
cũng chợt biến mất
để lại "tiếng khóc cho đêm"
tiếng khóc còn nấc nghẹn đến tận giờ…

_________________

1. Thơ chữ Hán.
* Trích trong ngoặc kép là ý thơ hoặc hình ảnh trong Nến khóc.



GIỮA BẢN VẮNG

Tôi đã đi hết tuổi trẻ của mình
đi gần hết những đắng cay, tủi hận, khát thèm, mơ mộng
để đến với một bản hoang vắng bên sông Đà
để cảm thông hết với người con trai trong chuyện kể
sau nhiều tháng năm lặn lội đi tìm người yêu, tìm lại được nàng,
sống cạnh nàng trong bảy ngày bảy đêm
rồi vỡ lẽ: nàng chỉ là một xác chết lạnh tanh…
để, giữa khi không còn cảm giác đói
thấm được vị ngọt đê mê của hạt gạo nương đầu vụ -
những hạt gạo đổi bằng máu của rừng, bằng thắt ruột
thắt gan chờ đợi, bằng cả sinh mệnh…
Mấy con khỉ mặt đỏ bạo dạn ùa tới những khu vườn
hoang, bới tìm củ đậu, quả cà, bắp ngô còn sót lại
Chàng trai đi cùng tôi định cầm hòn gạch vỡ ném đùa
Tôi ngăn lại, vì biết đâu, trong số những con khỉ ấy
có lũ con thơ buộc phải bỏ rơi trong rừng
bởi đôi vợ chồng xưa trong chạn không còn gì để ăn…
Tôi đã sống qua bao trăn trở, hoài niệm, khát khao bay bổng
quên rằng cái ăn là nỗi lo thường trực của nhiều người -
kể cả tôi
và tôi đã thi vị hoá cái nghèo, cái đói
tệ hơn, lẩn tránh vào sách vở và đủ loại triết lý siêu hình
Và cứ thế
tôi đến với hôm nay
với bản vắng
sắp chìm trong nước lạnh…

Sơn La, 2007




Thơ Nguyễn Anh Tuấn

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét