NGUYỄN YÊN THẾ
Cứ lâu lâu không lên Sơn La là tôi lại thấy nhớ nhung, bồn chồn. Mảnh đất ấy đã gắn bó với tuổi trẻ khốn khó của tôi - một anh giáo nghèo, nhưng cũng là nơi đã cho tôi cả một mạch nguồn thơ phong phú dường vô tận...Và nơi ấy, ngoài các thế hệ học trò đáng yêu đã trưởng thành vẫn một mực quý mến thầy, cùng những đồng nghiệp cũ đáng kính trọng, tôi còn có một sự gắn bó đặc biệt với một người bạn từng dạy văn cùng trường, cùng sinh hoạt giáo viên tập thể, cùng mang "trọng bệnh" yêu thơ. Đó là Dương Tam Kha.
Trùng tên với một vị vua cướp ngai vàng cách đây 10 thế kỷ, song Dương Tam Kha lại không có một chút đam mê chính trị nào; anh chỉ say thơ đến độ mê mẩn. Lần nào lên Sơn La, tôi cũng phải cố gắng vào thăm căn phòng bụi bậm đầy sách vở và sặc mùi thuốc lào nằm giữa một khu vườn lớn rậm rịt, để được anh "tra tấn" bằng hàng tập bản thảo thơ dày cộp, bởi tôi đã trót ghim vào tâm tưởng những câu thơ như thế này của một anh chàng được hàng xóm mệnh danh là "thi sĩ hâm":
Có em phải em là nàng tiên đến từ cõi Phật
Hay là chúng sinh mong cứu khổ giải oan?
Nhặt chiếc lá khô viết lên câu thơ
Thương giọt sương đêm lệ rưng đáy mắt.
Lần nào chia tay nhau, anh cũng đưa tôi ra bên đường Chu Văn Thịnh đón xe vét khách từ huyện Mường La (nơi có công trình thủy điện Sơn La) về Hà Nội; và lần nào cũng thế, chúng tôi đều thấy bâng khuâng, không nỡ rời nhau. Trong bài Tiễn Bạn, anh đã kể lại cảm xúc ấy:
...Người về thui thủi mình tôi
Sớm khuya một bóng gói lời nhớ thương...
Tôi hiểu nỗi niềm của anh, người đang tìm cách tránh xa những tục lụy của đời sau bao năm tháng vẫy vùng kiếm sống đến tuyệt vọng - bỏ nghề dạy học đi đào vàng, làm thợ mộc thợ nề, nuôi cây cảnh..., để rồi lắm khi nhìn lại mơ ước xưa với không ít bẽ bàng, chua xót:
Bơ vơ chiều nay, tôi trở lại
Một mình hoang vắng với trời không ...
...Em nơi đâu? Tôi bơ vơ chiều nay.
Hồi mới lên Tây Bắc, chúng tôi, những chàng trai trẻ tuổi ngoài đôi mươi tràn đầy hào hứng và mơ mộng:
Nơi đây không có thời gian
Tôi như con bướm say ngàn bông hoa
Xứ ngàn xanh yêu quý
Hát ngàn lời đâu hết được hồn ta
Mỗi ngày trôi qua muôn sắc rừng già
Thực tế phũ phàng của đời sống khiến không hiếm lúc Dòng thơ trào theo dòng nước mắt, song không thể cướp đi thi hứng của kẻ luôn cảm thấy: Hoa ban, hoa đào rưng rưng nước mắt người xưa, của một người tự nhận: Ta gửi lại mảnh hồn với rừng với suối... Dương Tam Kha có nhiều bài thơ câu thơ hay viết về Tây Bắc, như đó chính là nơi chôn rau cắt rốn và anh từng lớn lên bằng lời ăn tiếng nói của đồng bào miền núi vậy:
Đây quê hương tôi:
Hoa ban chạy đi tìm bạn nhớ
Hoa pặc piền thăm hỏi bạn thương
Trắng bay hoa gạo thắp sao ráng chiều
( Quê mới)
Có những cánh rừng nguyên sinh ven sông Đà
Quanh năm sương mờ giăng đỉnh núi
Có con thuyền độc mộc và thiếu nữ mộng mơ
Neo đậu một ngày bên bờ hoa dại
Đêm trăng có tiếng khèn ai dìu dặt
Gieo bước hoang vu trên con đường làng
Bất chợt em sửa lại chiếc piêu hồng
Mùa xuân nở bên dòng suối
(Bất Chợt)
Cành ban đầu khuống em, anh đỡ
Cành bưởi cuối nhà em anh nâng
Bậc cầu thang ngập ngừng từng bước
Tiếng động sàn ngỡ gót em qua
(Đêm ngủ nhà sàn)
Em ngồi miệt mài trong khung cửi
Cánh bướm vờn quanh những đường tơ
Tay ngà đưa nắng trên nhung lụa
Nắng như hoa đậu vườn ban trưa.
Ngôi nhà sàn nghiêng bên sườn núi
Bếp lửa hồng sao biếc vờn quanh
(Khăn piêu)
Cảm xúc tràn đầy và những quan sát kỹ lưỡng tinh tế về thiên nhiên & con người Tây Bắc là cơ sở để anh viết được thiên trường ca Anh hùng Lò Văn Giá (Nxb Hội nhà văn) hơn 3.000 câu thơ và cũng khá đặc sắc!
Nhiều năm sau, nhìn lại, anh có thể nói với người se duyên kết tóc với mình:
Bao dặm dài anh qua
Mái tóc giờ điểm bạc
Yêu thương một mái nhà
Say tình người xứ lạ
Nơi trập trùng rừng núi miền Tây, anh thường nhớ tới đồng bằng, vùng quê thời mới lớn từng có một Cặp mắt long lanh đánh đuối hồn tôi... Và với hồi ức của người đang sống giữa thiên nhiên Tây Bắc nơi thượng nguồn sông Đà sông Mã, anh đã có những câu thơ viết về quê hương vùng hạ nguồn sông Mã thật thấm thía:
Tôi lớn lên từ một làng quê có một dòng sông
Có gió mặn mòi cơn nồm cơn bấc
Có giọt mồ hôi và rét buốt tê người…
(Sông quê)
Chuông chùa động thinh không
tí tách tiếng mưa vọng lại
Trong sương khói vị sư già chậm rãi
Chiều vội qua mau hoa nở lạnh lùng.
con rùa già hóa đá
linh hồn oan định nhập cõi thiền...
(Thăm lại làng xưa)
Mưa gõ nhịp tiếng kinh cầu mõ lạnh
Mây núi giăng sương tựa khói lâm tuyền
Hàng trúc đợi vị sư già khổ hạnh
Chậm bước hoàng hôn dâng thắp hương đèn.
Quê hương hiển hiện trong tâm hồn thi sĩ qua những hình ảnh thân thuộc với bao thế hệ, và cũng thật "cổ điển" đối với thi ca:
Nâu sồng, cơm vắt, tương cà
Câu dân ca một thời phiêu dạt…
Gánh cực dồn bước trèo non
Song mây quang đứt, tủi hờn nén thương
Thân cò sớm nắng chiều sương
Hoang hoang lạnh những bãi truông sình lầy
Anh viết về người mẹ chốn quê cũ có Mái tóc trắng màu cánh cò lặn lội như sau:
Nuôi con cạn bấc dầu hao
Nếp nghèo gia giáo một câu tâm nguyền
Đạo Nho, đạo Phật lưu truyền
Vui hòa nước mắt trải miền gian truân.
Mẹ dẫu xa vẫn như gần
Trang thơ con lại nối vần ông cha
Những lần lang thang trong chợ phiên ở thị xã, khi mà Mây và trăng anh không thể đem ra nơi chợ phiên, Dương Tam Kha có dịp ngẫm lại ý nghĩa cuộc đời mình:
Bơ vơ đi chợ chiều nay
Không mua chẳng bán mới hay phận mình...
Thực ra, anh đã làm đủ thứ việc để mưu sinh, nhưng chẳng việc nào ra hồn, trong khi đó thì Sách đèn thơ phú quên tháng ngày, thơ vẫn bám theo như một duyên nợ tự kiếp nào:
Rừng sâu núi thẳm xa vợ con
Lên núi tìm vàng vàng chẳng có
Làm thơ khóc đời ta không đặng
Ngày ngày thơ thẩn bên suối vắng
Nhặt hòn cuội trắng ném lên trăng.
Cay đắng thay, kẻ nặng nợ với văn chương làm sao đủ bản lĩnh để đối chất được với sự dè bỉu của những người tỉnh táo:
Ông là nhà thơ hử?
Tôi không có thời giờ
Mưu sinh dày công chuyện
Thơ dành người mộng du!
Nhưng rồi, bởi thơ từng chữ như hơi sương đọng lại nên nhà thơ đành chấp nhận cái phận: Còn lưng đôi chữ hong vào đèn đêm, và :
Thương câu lục bát bơ vơ
Tháng ba có một khách thơ bạn cùng...
...Thôi đành một kiếp đa đoan
Giọt cay giọt đắng tìm sang bạn hiền
...Tôi còn nợ trời tròn đất vuông
Đi tìm đôi câu lục bát
Say thơ đến độ, anh đã làm cả một trang Web: "Dương Tam Kha toàn thơ"!
Dương Tam Kha từng tuyên bố rằng, nguồn sống chính của thơ anh không phải là kỷ niệm và vẻ đẹp của hoa lá, mà là nỗi đau khổ của Những người dưới đáy cùng xã hội/Hồn nhập đời ta. Hàng ngày chứng kiến cảnh Chợ Người, anh thương cảm cho những người:
trông chờ đồng tiền rẻ mạt
Bán mồ hôi, máu và nước mắt
Mặt trời úa vàng, làn da xanh xao.
Có kẻ thở dài ngao ngán
Nói lời có vần:
"Gánh cứt đi đổi rắm!" (Tục ngữ của dân tộc Thái)
Nhà thơ đàn anh Vương Trung người Thái đã khen bài thơ này hay, và hiện thực lắm. Mượn một câu tục ngữ địa phương tưởng không có gì là thơ cả, anh đã nói được cái sâu lắng của lòng mình cùng sự thật phũ phàng- và theo tôi, đó cũng là chất thơ chân chính!
Có biết xót xa thương cảm, anh mới biết căm giận những Bóng đen:
Kẻ ganh ghét tài năng, hận thù văn minh
Chiếm đoạt học vị, chức quyền hèn mạt
Hắn giấu ngang qua hai thế kỷ
mới biết đồng cảm với những bài thơ thế sự và tiểu thuyết lịch sử của nhà văn Ngô Văn Phú:
Xa xót cuộc đời, xa xót kiếp người
Người viết sử vạch mặt bầy gian ác
Kẻ xu thời vênh vang đội lốt
Chữ tâm hèn ngồi chiếm ngôi cao.
Một trong những bài thơ hoàn bích hơn cả của Dương Tam Kha là bài Phố núi, viết tại Sa Pa. Nếu ai đó tới đây chỉ thấy vẻ đẹp, sự thi vị, thì thông qua cái nhìn của một anh họa sĩ, nhà thơ đã vẽ lên sự tương phản của hai cảnh sống- giữa chủ nhân của các biệt thự sang trọng, các du khách với những cảnh:
Mẹ dắt đàn con, em lả trên vai chị
Lần lữa tháng ngày hàng rong lưu niệm.
...Mấy cụ già đàn hát bản xa
Hai góc chiếu ngồi như tượng đá
...Hàng rào đá ngăn bầy trẻ nhỏ
Lũ trâu gầy gặm cỏ cằn khô.
...Cả bản ngược xuôi lên rừng xuống phố
Đôi mắt dại cháo rau cuối chợ
Bước mỏi mòn u ám chiều mưa.
Nhưng Dương Tam Kha không chỉ biết trữ tình và thốt mỉa mai, căm giận, anh còn biết tự trào- và đó cũng là một khía cạnh riêng khá lý thú của thơ anh. Đây là một bài mới nhất của anh, cho thấy sự trưởng thành của bút pháp cũng như cái nhìn của nhà thơ về cuộc đời:
Chùa nương động núi sương giăng lạnh
Khói nhang đèn mờ Phật hay Tiên?
Phận nghèo lòng thành tâm hương nguyện
Phật cười: "Kiếp trước tôi giống anh!
(Phật cười)
Anh chế riễu Nàng Thơ- tức cũng chế riễu mình chơi:
Nàng thơ... Đích thị là ả đa tình, trái tính, trái nết.
Nàng làm khổ ta phút phút, giờ giờ, đêm đêm, ngày ngày,
tháng tháng, năm năm.
Ta chẳng còn gì mà nàng đâu chịu buông tha
mời nàng về
làm một Manơcanh để nơi cánh cửa
hay bên cạnh ban thờ thêm vui nhà, vui xóm!
Nhưng, anh lại thú thực ngay sau đó:
Cái ta có được giờ đây là mái tóc bông mây
và ngày ngày nàng thơ hằng gõ cửa
Chắc anh không thể làm gì hơn cái việc: hát đến bao giờ vơi nỗi cô đơn. Và trong cảnh ngộ: Bao niềm tin, hy vọng tan thành mây khói, anh vẫn luôn tâm niệm:
Trang thơ anh dầu ngót nghìn bài
Chưa một lần nỡ phụ tương lai...
Nuôi con cạn bấc dầu hao
Nếp nghèo gia giáo một câu tâm nguyền
Đạo Nho, đạo Phật lưu truyền
Vui hòa nước mắt trải miền gian truân.
Mẹ dẫu xa vẫn như gần
Trang thơ con lại nối vần ông cha
Những lần lang thang trong chợ phiên ở thị xã, khi mà Mây và trăng anh không thể đem ra nơi chợ phiên, Dương Tam Kha có dịp ngẫm lại ý nghĩa cuộc đời mình:
Bơ vơ đi chợ chiều nay
Không mua chẳng bán mới hay phận mình...
Thực ra, anh đã làm đủ thứ việc để mưu sinh, nhưng chẳng việc nào ra hồn, trong khi đó thì Sách đèn thơ phú quên tháng ngày, thơ vẫn bám theo như một duyên nợ tự kiếp nào:
Rừng sâu núi thẳm xa vợ con
Lên núi tìm vàng vàng chẳng có
Làm thơ khóc đời ta không đặng
Ngày ngày thơ thẩn bên suối vắng
Nhặt hòn cuội trắng ném lên trăng.
Cay đắng thay, kẻ nặng nợ với văn chương làm sao đủ bản lĩnh để đối chất được với sự dè bỉu của những người tỉnh táo:
Ông là nhà thơ hử?
Tôi không có thời giờ
Mưu sinh dày công chuyện
Thơ dành người mộng du!
Nhưng rồi, bởi thơ từng chữ như hơi sương đọng lại nên nhà thơ đành chấp nhận cái phận: Còn lưng đôi chữ hong vào đèn đêm, và :
Thương câu lục bát bơ vơ
Tháng ba có một khách thơ bạn cùng...
...Thôi đành một kiếp đa đoan
Giọt cay giọt đắng tìm sang bạn hiền
...Tôi còn nợ trời tròn đất vuông
Đi tìm đôi câu lục bát
Say thơ đến độ, anh đã làm cả một trang Web: "Dương Tam Kha toàn thơ"!
Dương Tam Kha từng tuyên bố rằng, nguồn sống chính của thơ anh không phải là kỷ niệm và vẻ đẹp của hoa lá, mà là nỗi đau khổ của Những người dưới đáy cùng xã hội/Hồn nhập đời ta. Hàng ngày chứng kiến cảnh Chợ Người, anh thương cảm cho những người:
trông chờ đồng tiền rẻ mạt
Bán mồ hôi, máu và nước mắt
Mặt trời úa vàng, làn da xanh xao.
Có kẻ thở dài ngao ngán
Nói lời có vần:
"Gánh cứt đi đổi rắm!" (Tục ngữ của dân tộc Thái)
Nhà thơ đàn anh Vương Trung người Thái đã khen bài thơ này hay, và hiện thực lắm. Mượn một câu tục ngữ địa phương tưởng không có gì là thơ cả, anh đã nói được cái sâu lắng của lòng mình cùng sự thật phũ phàng- và theo tôi, đó cũng là chất thơ chân chính!
Có biết xót xa thương cảm, anh mới biết căm giận những Bóng đen:
Kẻ ganh ghét tài năng, hận thù văn minh
Chiếm đoạt học vị, chức quyền hèn mạt
Hắn giấu ngang qua hai thế kỷ
mới biết đồng cảm với những bài thơ thế sự và tiểu thuyết lịch sử của nhà văn Ngô Văn Phú:
Xa xót cuộc đời, xa xót kiếp người
Người viết sử vạch mặt bầy gian ác
Kẻ xu thời vênh vang đội lốt
Chữ tâm hèn ngồi chiếm ngôi cao.
Một trong những bài thơ hoàn bích hơn cả của Dương Tam Kha là bài Phố núi, viết tại Sa Pa. Nếu ai đó tới đây chỉ thấy vẻ đẹp, sự thi vị, thì thông qua cái nhìn của một anh họa sĩ, nhà thơ đã vẽ lên sự tương phản của hai cảnh sống- giữa chủ nhân của các biệt thự sang trọng, các du khách với những cảnh:
Mẹ dắt đàn con, em lả trên vai chị
Lần lữa tháng ngày hàng rong lưu niệm.
...Mấy cụ già đàn hát bản xa
Hai góc chiếu ngồi như tượng đá
...Hàng rào đá ngăn bầy trẻ nhỏ
Lũ trâu gầy gặm cỏ cằn khô.
...Cả bản ngược xuôi lên rừng xuống phố
Đôi mắt dại cháo rau cuối chợ
Bước mỏi mòn u ám chiều mưa.
Nhưng Dương Tam Kha không chỉ biết trữ tình và thốt mỉa mai, căm giận, anh còn biết tự trào- và đó cũng là một khía cạnh riêng khá lý thú của thơ anh. Đây là một bài mới nhất của anh, cho thấy sự trưởng thành của bút pháp cũng như cái nhìn của nhà thơ về cuộc đời:
Chùa nương động núi sương giăng lạnh
Khói nhang đèn mờ Phật hay Tiên?
Phận nghèo lòng thành tâm hương nguyện
Phật cười: "Kiếp trước tôi giống anh!
(Phật cười)
Anh chế riễu Nàng Thơ- tức cũng chế riễu mình chơi:
Nàng thơ... Đích thị là ả đa tình, trái tính, trái nết.
Nàng làm khổ ta phút phút, giờ giờ, đêm đêm, ngày ngày,
tháng tháng, năm năm.
Ta chẳng còn gì mà nàng đâu chịu buông tha
mời nàng về
làm một Manơcanh để nơi cánh cửa
hay bên cạnh ban thờ thêm vui nhà, vui xóm!
Nhưng, anh lại thú thực ngay sau đó:
Cái ta có được giờ đây là mái tóc bông mây
và ngày ngày nàng thơ hằng gõ cửa
Chắc anh không thể làm gì hơn cái việc: hát đến bao giờ vơi nỗi cô đơn. Và trong cảnh ngộ: Bao niềm tin, hy vọng tan thành mây khói, anh vẫn luôn tâm niệm:
Trang thơ anh dầu ngót nghìn bài
Chưa một lần nỡ phụ tương lai...
Giờ đây, anh đã rời Sơn la lên sống với gia đình trên thành phố Lao Cai; anh lại tiếp tục hòa mình vào cuộc sống của đồng bào dân tộc, tiếp tục ngẫm ngợi, làm thơ...Và nhớ bạn thơ. Còn tôi, mỗi lần ngược Sơn La thăm bè bạn, học trò hay làm phim, lại nhớ về cái phòng văn ngập bụi và khói thuốc lào của anh, ngâm nga câu thơ của anh để nói hộ lòng mình:
Người về thui thủi mình tôi
Sớm khuya một bóng gói lời nhớ thương...
________________
* Những câu in nghiêng là thơ của Dương Tam Kha lấy từ các tập thơ: 1.Trăng hai miền (nxb Thanh niên) 2. Hạt sương 3. Hạt muối 4. Khát 5. Hương mùa ( nxb Văn học)
Lethieunhon.com
Người về thui thủi mình tôi
Sớm khuya một bóng gói lời nhớ thương...
________________
* Những câu in nghiêng là thơ của Dương Tam Kha lấy từ các tập thơ: 1.Trăng hai miền (nxb Thanh niên) 2. Hạt sương 3. Hạt muối 4. Khát 5. Hương mùa ( nxb Văn học)
Lethieunhon.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét